Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học

 - Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt.

- Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh, theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay nếu học sinh đọc sai và không chuẩn.

- Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe, đĩa VCD, thẻ nhớ hoặc usb chứa file nghe (có thể sử dụng cho đầu VCD, DVD hoặc máy vi tính hay laptop) để tự rèn luyện ở nhà nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên.

 

doc 22 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 27623Lượt tải 9 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tạo xuất bản ngay từ lớp 3 theo chương trình 2 tiết /tuần. Qua các năm giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận thấy kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh Tiểu học. Đây là lý do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học”
II. THỰC TRẠNG:	
 1 . Học sinh:
 - Trường Tiểu học Đoàn Thị Nghiệp mà tôi đang công tác hiện nay, chương trình Tiếng Anh đã được giảng dạy từ nhiều năm. Bản thân tôi đều được dạy các khối 3, 4, 5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 4 và 5 các em rất tự tin và tích cực phát biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 3 thì ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra cũng dễ hiểu. Qua đây chúng ta thấy rằng vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác do các em mới bắt đầu được học Tiếng Anh nên còn nhiều bỡ ngỡ dù rằng các em cũng rất thích học.
 - Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong các năm giảng dạy tôi thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn yếu.
- Mỗi tuần chỉ được học hai tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh.
- Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn Anh Văn. Vốn từ vựng của các em không có nhiều do các em không thuộc từ vựng hoặc các em không chịu học vì cứ nghĩ đây là môn phụ nên nó không quan trọng.
 2 . Giáo viên:
- Bản thân tôi vẫn có những bài hát không biết hát nên khi hướng dẫn những bài hát Tiếng Anh gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc.
 3 . Về phía phụ huynh học sinh:
- Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự quan tâm sâu sát đến con em trong việc học môn Tiếng Anh.
4 . Về mặt trang-thiết bị:
- Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp tiểu học nội dung khá dài giáo viên truyền tải kiến thức trong một tiết chỉ 35 phút không đủ. Do đó thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều.
- Giáo viên phải tự lo kinh phí làm đồ dùng dạy học.
- Học sinh rất hứng thú khi được học bài giảng điện tử nhưng do nhà trường chưa có đủ điều kiện về phòng lab cũng như máy chiếu (trường chỉ có một máy chiếu) nên tiết dạy bằng giáo án điện tử chưa được tận dụng triệt để.
- Những thiết bị hổ trợ như tranh ảnh, con rối còn thiếu khiến tiết dạy của giáo viên chưa sinh động nên chưa thu hút được các em.
- Một số học sinh do hoàn cảnh khó khăn, các em phải dành thời gian ở nhà để phụ giúp gia đình, và các em cũng chưa được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và dụng cụ học tập vì thế các em không có điều kiện để tự học ở nhà.
III . GIẢI PHÁP:
 1. Về giáo viên:
 a / Thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy:
- Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông việc sử dụng Tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn từ các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học sinh Tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên, chính điều này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học “lười” nói Tiếng Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong số lý do làm cho học sinh chưa tự tin khi đàm thoại bằng Tiếng Anh. Chúng ta là đầu tàu gương mẫu, lứa tuổi thiếu nhi còn ngây thơ và dễ bắt chước, thầy cô phải là tấm gương để học sinh noi theo, nếu giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì những câu nói đó dần dần thấm sâu vào tâm trí các em, khi cần nói tự nhiên các em sẽ phát ra được.
 * Thực hiện: 
- Vào đầu mỗi tiết dạy, tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp.
 Ví dụ : 
 T : Good morning, everybody !
 How are you today ?
 Ss : Good morning, Mrs. Diem !
 We’re fine, thank you.
 How are you ?
 T : I’m fine. Thanks.
- Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi trở thành giáo viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng các em lúc này. Đối với tôi, việc sử dụng các hoạt động trò chơi trước khi bắt đầu tiết học không những giúp không khí lớp học không nặng nề mà còn làm cho tiết học trở nên sinh động, tạo cho học sinh tâm lý thoải mái. Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu. 
 Ví dụ: 
	 Teacher: Would you like to play game ?
 Students: Yes.
 	 Teacher: Play game “ Slap the board” – Ok !
 Students: Ok!
 Teacher: Four boys and four girls, please !
 Now, any volunteers ? Raise your hand !
- Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác.
 Ví dụ: 
	 Teacher: Are you ready ?
	 Students: Yes .
 Teacher: Now, let’s begin “ one, two, three”
- Để học sinh dễ ghi nhớ các chữ cái trong bảng chữ cái Tiếng Anh và các từ vựng, tôi sử dụng những câu đố, trò chơi trí tuệ nhằm kích thích các em tư duy, suy nghĩ, khi tìm được đáp án các em sẽ ghi nhớ sâu hơn. Sau khi học sinh đưa ra đáp án, tôi sẽ cho các em biết đáp án và giải thích thêm để các em hiểu rõ hơn.
Ví dụ: 
Tôi đưa ra những câu đố hỏi về các chữ cái Tiếng Anh bằng Tiếng Anh với ngôn từ đơn giản và dễ hiểu như “What letter is a body of water?” (“C” vì nó được đọc gần giống từ “sea”, mà “sea” có nghĩa là “biển”); “What letter is a drink?” (“T” vì nó được đọc gần giống từ “tea”, mà “tea” có nghĩa là “trà”). 
Tôi soạn các câu đố dựa theo trò chơi “đuổi hình bắt chữ” nhằm giúp các em ghi nhớ từ vựng. Trò chơi như sau: Let’s play English Word Pursuit game.
Đáp án
- Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong Huyện tôi thấy đa số thầy, cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học Anh Văn. Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng Anh của học sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt hạn chế trên rồi mới đến học sinh.
 b / Thái độ giáo viên khi đứng lớp:
- Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng trong giờ học Tiếng Anh. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt,  học sinh đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Tiếng Anh giáo viên cần tạo không khí lớp học sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ.
 * Thực hiện: 
- Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng Anh trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai.
- Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới.
- Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn tốt sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được điều này bước đầu chúng ta đã thành công. Sau đây là một ví dụ minh hoạ.
 Ví dụ:
Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ không nói được hoặc “ấp a ấp úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may mắn lần sau”. 
- Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc và “lớn tiếng” khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này không nên vì sẽ làm cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ” trong giao tiếp khi học ngoại ngữ.
 2. Về học sinh:
 a / Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu câu:
- Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Phải tập các em nói đúng và chuẩn ngay từ khi mới học Tiếng Anh. Bởi vì người xưa thường nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao tiếp.
 * Thực hiện:
 - Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt.
- Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh, theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay nếu học sinh đọc sai và không chuẩn.
- Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe, đĩa VCD, thẻ nhớ hoặc usb chứa file nghe (có thể sử dụng cho đầu VCD, DVD hoặc máy vi tính hay laptop) để tự rèn luyện ở nhà nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên.
 b / Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng Tiếng Anh:
 - Các bạn thấy đó người nước ngoài khi nói chuyện với chúng ta thường sử dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ hiểu và có cảm giác gần gũi hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta học ngôn ngữ của họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp. Đây là lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại Tiếng Anh. 
 * Thực hiện: 
 - Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi,  của người mình muốn hỏi thì chìa tay về người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về đồ vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn.
 Ví dụ:
 Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày lại.
 Hoa : Hello, Lan. How are you today ?
 (Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Lan)
 Lan : Hi, Hoa . I’m fine, thank you.
 	 (Lan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời )
 Hoa : How’s the weather ?
 	 (Chỉ tay lên trời)
 Lan : It’s sunny .
 	 (Đưa tay lên trời)
 Hoa : Let’s play.
	 Lan : Ok !
 (Cả hai cùng nắm tay và chạy)
 c / Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân:
 - Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy, tôi yêu cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm.
 * Thực hiện:
- Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp và viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết,.)
 - Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành nhiều chủ đề để các em thuận tiện hơn khi sử dụng. Tiếp theo chia trang vở làm hai phần một bên viết từ Tiếng Anh bên kia viết nghĩa Tiếng Việt.
 Ví dụ: 
 	 Chủ đề về đồ vật
 English Vietnamese
 * a ruler	à 	1 cây thước 
 * a pen 	à 	1 cây bút mực
	 * a desk	à 	1 cái bàn học
	 * an eraser	à	1 cục tẩy
 .
 - Để quyển từ điển thêm phong phú tôi hướng dẫn học sinh tự vẽ hoặc sưu tầm hình ảnh để minh hoạ nghĩa Tiếng Việt.
	 Ví dụ:
	 Chủ đề về tự nhiên
 English	 Vietnamese 
* a tree	 à
* trees	 à
* a cloud	 à
 * clouds	 à
* a flower à
* flowers à
3. Một số biện pháp khác:
 a / Phân hoá đối tượng học sinh và chia nhóm rèn luyện kỹ năng giao tiếp:
 - Phân định rõ đối tượng nhằm giúp giáo viên bao quát lớp tốt hơn, nắm rõ số lượng học sinh yếu nhiều hay ít của từng lớp. Từ đó giáo viên lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao.
 * Thực hiện:
 - Bắt đầu vào năm học mới sau ba tuần học tôi có thể phân loại nhóm học sinh giỏi, khá và nhóm trung bình, yếu. Tôi chia lớp thành nhiều nhóm (mỗi nhóm từ bốn đến năm học sinh) để cùng nhau học tập. Trong nhóm có từ hai đến ba học sinh thuộc dạng khá giỏi, những em này được phân công làm nhóm trưởng và nhóm phó để điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ những bạn yếu.
- Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như: “Blue sky”, “Lion”, “Green grass”, “Tiger”, . để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh.
- Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Tiếng Anh. Chỉ hoạt động từ 5 phút đến 10 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể nói một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m fine, thank you .”
 Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn.
 Ví dụ:
 Vy : Hello, Nam.
 Nam : Hi, Vy . What’s the matter?
 Vy : I’m thirsty.
 Nam : Do you want milk ?
 Vy : Yes, I do.
 Nam : Here you are !
 Vy : Thank you.
 Nam : You’re welcome.
 .
- Vào cuối mỗi tiết học tôi dành từ ba đến năm phút ở phần mở rộng bài học để kiểm tra từ 1 đến 2 nhóm. Các nhóm sẽ trình bày lại những gì đã thực hành ở đầu giờ học. Nhóm nào thực hành tốt sẽ được thưởng, phần thưởng là những tràng pháo tay của tập thể, những bông hoa, viên kẹo hay vài chiếc bánh để khích lệ tinh thần các em. Đối với học sinh yếu có tiến bộ tôi thưởng cho các em đồ dùng học tập như: viết, thước, vở,  còn các nhóm trưởng và nhóm phó của nhóm có bạn yếu tiến bộ cũng được nhận phần quà.
- Hoạt động nhóm mục đích giúp cho những học sinh yếu khắc phục tính rụt rè, sợ sệt và mặc cảm khi không nói được Tiếng Anh như các bạn. Thầy cô không có nhiều thời gian để gần gũi và giúp đỡ các em, thông qua hoạt động nhóm bạn sẽ là người hỗ trợ có hiệu quả nhất “Học thầy không tày học bạn”.
 b/ Khuyến khích học sinh tập hát nhiều bài hát Tiếng Anh:
- Muốn học giỏi Tiếng Anh điều đầu tiên ta phải làm thế nào cho trẻ em yêu thích nó. Âm nhạc chính là cầu nối sẽ giúp các em đến gần môn học này hơn để thấy rằng Tiếng Anh thật thú vị và bổ ích.
 * Thực hiện:
- Ngoài những bài hát trong chương trình học tôi còn sưu tầm trên internet, băng, đĩa một số bài phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi để dạy các em. Lứa tuổi học sinh tiểu học rất năng động và thích hát, những bài có tiết tấu vui nhộn càng làm các em thích thú. Thông qua đây học sinh sẽ chăm học Tiếng Anh hơn.
- Giáo viên cần giải thích ý nghĩa, nội dung bài hát để học sinh hiểu, cảm thụ bài hát. Từ đó các em có hứng thú và hát hay hơn.
- Học sinh hát tập thể, nhóm và có thể cho các em tự chọn bạn hát chung với mình.
- Khi dạy bài hát mới tôi lồng ghép vào tiết làm bài tập tại lớp vừa giảm bớt căng thẳng vừa cung cấp thêm nhiều bài hát cho học sinh.
- Ngoai ra để giúp học sinh mau thuộc cấu trúc câu, tôi thường chế lại các cấu trúc theo lời các bài hát mà các em đã thuộc như: “kìa con bướm vàng”
c/ Tận dụng tối đa trang - thiết bị có sẵn 
- Muốn học tốt các em phải được trang bị đầy đủ dụng cụ học tập cũng như tập sách. Còn giáo viên muốn tiết dạy sinh động cũng cần có các thiết bị kèm theo. Do đó cần khai thác triệt để những thiết bị sẵn có.
* Thực hiện:
- Vào cuối năm học tôi kêu gọi các em tặng sách cũ cho nhà trường, nhà trường dùng sách đó để tặng cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
- Huy động nguồn tài trợ từ các mạnh thường quân nhằm giúp các em khó khăn trang bị đầy đủ dụng cụ học tâp.
- Giáo viên tận dụng những trang - thiết bị sẵn có và có thể làm ra những đồ dùng dạy học phù hợp với các bài học và bảo quản chúng thật tốt để có thể tái sử dụng nhiều lần. 
IV. KẾT QUẢ:
- Tôi đã áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy và tôi nhận thấy chất lượng được nâng cao so với những năm học trước. Hơn nữa học sinh cũng biết sử dụng một số câu Tiếng Anh thông thường để ứng dụng vào các bài đàm thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp.
- Khi áp dụng những biện pháp trên tôi thấy tiết dạy của mình không còn nhàm chán mỗi khi lên lớp. Không khí lớp học sinh động hơn, học sinh hưng phấn và thích nói Tiếng Anh nhiều hơn và thường yêu cầu tôi mở rộng thêm một số câu Tiếng Anh sử dụng trong giao tiếp. Đây là một bước phát triển tốt.
- Học sinh không còn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó là tâm trạng trông chờ đến tiết học. 
- Sau đây là kết quả theo từng năm học của học sinh mà tôi phụ trách:
Năm học
Tổng số học sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Trung bình trở lên
Số lượng
Tỉ lệ % 
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
2011-2012
391
60
15,3
138
35,3
193
49,4
391
100
2012-2013
293
84
28,7
104
35,5
105
35,8
293
100
2013-2014
378
139
36,8
136
36,0
103
27,2
378
100
- Qua bảng số liệu tôi nhận thấy tất cả học sinh đều đạt từ mức trung bình trở lên (100%), tỉ lệ học sinh giỏi năm học sau luôn cao hơn năm học trước, tỉ lệ học sinh khá cũng tăng tương đối, tỉ lệ học sinh đạt trung bình giảm dần theo các năm. Từ đó tôi nhận thấy học sinh học tập ngày càng có tiến bộ hơn.
- Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào giảng dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học sinh, phù hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được chất lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt “giữa thầy và trò”, “giữa trò và trò”, học sinh cảm thấy yêu thích môn học mà mình phụ trách. Để từ đó các em học tốt hơn và tạo nền tảng cho sự phát triển sau này.
V . KẾT LUẬN:
- Để đạt được những thành quả trên, bản thân tôi luôn nhận thức được trách nhiệm của mình. Tìm mọi biện pháp để rèn luyện từng đối tượng học sinh, kích thích các em có hứng thú trong việc học ngoại ngữ ngay từ đầu. Làm được việc này chúng ta đã rèn luyện cho các em có thói quen học Tiếng Anh tốt. Để kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao, giáo viên cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú đa dạng, sử dụng phương pháp dạy phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh.
- Trong bất cứ nghề nghiệp hay công việc gì cũng đòi hỏi người làm phải có cái tâm và niềm đam mê. Có được điều này chắc chắn chúng ta sẽ thành công. Nhiệm vụ truyền đạt kiến thức không ngoài khả năng của một giáo viên nào cả. Nếu giáo viên có lòng quyết tâm, yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại, uốn nắn các em ở mọi lúc mọi nơi nhất là đối với học sinh yếu kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Bản thân luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có làm tốt nhiệm vụ này là chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường.
- Bản thân tôi nhận ra rằng giữa thầy và trò không nên có khoảng cách mà chúng ta phải tạo cho các em cảm giác gần gũi để xem người thầy của mình cũng là một người bạn. Từ đó học sinh sẽ tự nhiên để tự tin phát triển tốt khả năng giao tiếp không chỉ đối với môn Tiếng Anh mà cả về phong cách bản thân.
VI . NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
 	 - Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết cách học đúng.
 	 - Phải đầu tư cho bài dạy của

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ve_phat_trien_ky_nang_giao_tiep_tieng_Anh.doc