Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề môn Địa lí 9

Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề môn Địa lí 9

I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN

Môn Địa lí là một bộ phận khoa học tự nhiên nghiên cứu Trái Đất, thiên nhiên

và con người các châu lục nói chung và thiên nhiên con người Việt Nam nói riêng.

Đối với môn Địa lí 9, mục tiêu của bộ môn là nhằm trang bị cho học sinh

những kiến thức phổ thông cơ bản về kinh tế - xã hội.

Sự phân hóa lãnh thổ về tự nhiên, kinh tế xã hội của nước ta và địa lí tỉnh,

thành phố nơi các em đang sinh sống và học tập.

Để đạt được điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải nắm vững phương pháp, nội

dung chương trình để dạy bài kiến thức mới, bài thực hành, bài ôn tập, hệ thống hóa

kiến thức từ đó giúp học sinh nắm kiến thức một cách hiệu qủa nhất.

Trong dạy học, việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh tự tìm tòi phát

hiện kiến thức nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh

chính là một trong những mục tiêu của dạy học tích cực và lấy học sinh làm trung

tâm.

Dạy học giải quyết vấn đề là dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và

cách thức hoạt động sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học.

Bản chất của phương pháp này là tạo nên một chuỗi những tình huống có vấn

đề, điều khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó. Nhờ vậy nó đảm bảo cho học sinh

lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình

thành cơ sở thế giới quan khoa học.

Dạy học theo cách giải quyết vấn đề giúp học sinh liên hệ và sử dụng những tri

thức đã có trong việc tiếp thu tri thức mới cũng như tạo được mối liên hệ giữa những

tri thức khác. Thông qua đó học sinh có thể giải thích được các sự sai khác giữa lý

thuyết và thực tiễn, những mâu thuẩn nhận thức được tìm thấy trong quá trình học tập.

Dạy học giải quyết vấn đề giúp học sinh thấy rõ trách nhiệm về việc học tập

của bản thân, phát triển được các kĩ năng viết và kĩ năng diễn đạt, giải quyết vấn đề và

đưa ra quyết định, phát triển năng lực giao tiếp xã hội

pdf 11 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 748Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực của học sinh qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề môn Địa lí 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính tích cực học tập của học sinh thông qua dạy học tạo tình huống có vấn đề là
không thể thiếu trong các khâu lên lớp và tôi dã chọn chủ đề này để thực hiện trong
quá trình dạy học, bước đầu mang lại những kết quả khả quan. 
Vì thế, tôi đã mạnh dạn viết thành đề tài này để bản thân và đồng nghiệp áp
dụng cho các năm học sau của trường THCS Quang Trung nhằm nâng cao chất lượng
môn Địa lí.
- 2 -
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
Trước những yêu cầu của xã hội, thời đại và sự phát triển của khoa học - kĩ
thuật, mục tiêu dạy học môn Địa lí ngày nay không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến
thức và rèn luyện kĩ năng địa lí cho học sinh mà qua đó phải góp phần cùng với các
môn học khác đào tạo ra những con người có tính sáng tạo, năng động, năng lực công
tác làm việc, năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết những tình huống,
những vấn đề của cuộc sống xã hội. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh có nhiều hình thức, nhiều con đường để
lĩnh hội tri thức mới trên cơ sở phát triển tư duy tìm tòi sáng tạo của học sinh. Môn
Địa Lí 9 nhằm giúp học sinh có những kiến thức phổ thông cơ bản về dân cư, các
ngành kinh tế. Sự phân hóa lãnh thổ về tự nhiên, kinh tế xã hội của nước ta và địa lí
Tỉnh, Thành phố nơi các em đang sinh sống và học tập, góp phần hình thành cho học
sinh thế giới quan khoa học, giáo dục tư tưởng, tình cảm đúng đắn, giúp cho học sinh
biết vận dụng kiến thức Địa Lí để ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã hội
xung quanh, phù hợp với yêu cầu của đất nước và thế giới trong thời đại mới.
Đặc trưng cơ bản của dạy học giải quyết vấn đề là “Tình huống có vấn đề”
hoặc “Tình huống học tập”. Qua thực tế giảng dạy cho thấy: Tư duy của học sinh chỉ
bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề, tức là ở đâu không có vấn đề thì ở đó
không có tư duy. Tình huống có vấn đề luôn luôn chứa đựng một nội dung cần xác
định, một nhiệm vụ cần phải giải quyết, một vướng mắc cần phải tháo gỡ. Do đó, kết
quả của việc nghiên cứu và giải quyết tình huống có vấn đề sẽ là tiếp thu tri thức mới,
nhận thức mới hoặc phương pháp hành động mới.
Dạy học giải quyết vấn đề phải dựa trên các yếu tố sau:
- Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của học sinh.
- Có sự kiếm tìm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
- Khả năng trí tuệ của học sinh thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực. Nó xuất
hiện nhờ tính tích cực nghiên cứu của chính học sinh.
Để đạt được mục tiêu nói trên thì việc đổi mới phương pháp dạy học là rất quan
trọng. Do đó khi đổi mới phương pháp dạy học phải chú ý đến đặc trưng và phương
pháp của môn học. Một trong những đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lí là
phương pháp giải quyết vấn đề. Vì vậy, trong dạy học Địa lí việc rèn luyện tính tích
cực học tập của học sinh qua phương pháp giải quyết vấn đề là rất quan trong nhằm
góp phần nâng cao chất lương dạy học.
Trong những năm gần đây Bộ giáo dục đào tạo đã triển khai đại trà chương
trình sách giáo khoa mới. Với dung lượng kiến thức và yêu cầu của kiến thức mới bắt
buộc giáo viên phải có một phương pháp dạy học phù hợp thì lượng kiến thức truyền
đạt đến học sinh mới có chất lượng cao. Trong chương trình SGK Địa lí bậc THCS
hiện nay rất chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng suy luận trên cơ sở hình ảnh minh
họa trực quan, sinh động hoặc mô hình, bản đồ, lược đồ, biểu đồ để từ đó học sinh
rút ra kiến thức và cách trình bày lập luận mang tính lôgíc, tạo ra một chuỗi hệ thống
lôgíc về mặt khoa học. Để đạt được yêu cầu đó, khi dạy học Địa lí giáo viên cần chú
trọng đến các phương pháp giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua
kênh hình và kênh chữ ở SGK. Chính vì lẽ đó mà việc rèn luyện tính cực học tập của 
- 3 -
học sinh qua phương pháp giải quyết vấn đề là một phương pháp hết sức cần thiết
trong dạy học bộ môn Địa lí hiện nay.
Đội ngũ giáo viên trẻ, được đào tạo đạt chuẩn, có năng lực, nhiệt tình trong
giảng dạy, có ý thức chấp hành kỉ luật tốt và quan trọng là tiếp cận được phương pháp
giảng dạy, quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, có ý thức
học hỏi đồng nghiệp thông qua các hoạt động dự giờ rút kinh nghiệm, thao giảng, hội
giảng, được tập huấn cập nhật thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ. Đặc biệt giáo viên đã chú trọng đến đặc trưng của bộ môn là áp dụng công nghệ
thông tin, sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học khi lên lớp. Được sự quan tâm của tổ bộ
môn tạo điều kiện để các giáo viên trao đổi, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn.
Tuy nhiên bên cạnh đó, đội ngủ giáo viên cùng môn trong trường còn ít, trong trường
là tổ ghép nên việc dự giờ rút kinh nghiệm còn nhiều hạn chế.
Trong những năm gần đây việc học bộ môn Địa lý đã được học sinh quan tâm
hơn, có đủ các phương tiện để phục vụ cho học tập đặc biệt là vở bài tập, tập bản đồ,
atlat địa lí, sách tham khảo, các tư liệu từ internet... Học sinh đã quen thuộc với cách
học mới, tích cực chủ động hơn trong việc phát hiện kiến thức, có ý thức tự giác trong
làm bài tập, chuẩn bị bài mới. Qua kiểm tra và chấm vở bài tập của học sinh cho thấy
phần lớn học sinh đã đầu tư thời gian cho việc làm bài tập, làm bài đầy đủ có chất
lượng, chịu khó tìm tòi những kiến thức thực tế khi giáo viên yêu cầu. Ngoài ra học
sinh cũng đã nêu ra được những câu hỏi có vấn đề muốn được giải đáp tạo bầu không
khí học tập sôi nổi hơn. Bên cạnh đó ngành giáo dục thường xuyên quan tâm tổ chức
thi học sinh giỏi đã có tác dụng rất lớn đến ý thức phấn đấu học tập bộ môn Địa lí của
học sinh.
Tuy nhiên, việc học tập của học sinh vẫn còn một số tồn tại sau:
- Một số ít học sinh còn thiếu tính tích cực, chủ động trong học tập đặc biệt là
trong việc hoạt động nhóm.
- Một số học sinh không chịu khó trong việc làm bài tập ở nhà, thậm chí còn
mượn vở bài tập của bạn để chép lại một cách thụ động.
- Qua kết quả kiểm tra chất lượng bộ môn Địa lí trước đây thì điểm trung bình
môn còn thấp.
- Vẫn còn những phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con nên
các em nghỉ học mê chơi, nghiện games.
 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Những giải pháp cần làm trong dạy học Địa lí để rèn luyện tính tích cực học
tập của học sinh
Dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề là hình thức dạy học mà người
giáo viên phải tổ chức được tình huống có vấn đề giúp học sinh nhận thức được tình
huống, chấp nhận giải quyết và tìm kiếm được kiến thức trong quá trình hoạt động
hợp tác giữa thầy và trò, phát huy tối đa tính tích cực của học sinh kết hợp với sự
hướng dẫn của giáo viên. Các bước thực hiện như sau: 
 2.1. Xây dựng tình huống có vấn đề:
 Trong một tiết lên lớp để tạo nên tình huống có vấn đề, trước hết cần: tìm hiểu
vấn đề, sau đó xác định được vấn đề cần giải quyết, đưa ra những giả thiết khác nhau
để giải quyết vấn đề, thử nghiệm giải pháp thích hợp nhất, hiệu quả nhất.
- 4 -
 Ví dụ: Khi dạy bài “Vùng Đông Nam Bộ” (Phần tình hình phát triển kinh tế).
Đây là vùng trọng điểm cây công nghiệp của cả nước. Giáo viên nêu vấn đề: Vì sao
Đông Nam Bộ trở thành vùng sản xuất cây công nghiệp trọng điểm của cả nước?
Để giải quyết được vấn đề này học sinh phải dựa vào các điều kiện tự nhiên đã
học ở lớp 8 và phần kiến thức tự nhiên - xã hội của vùng Đông Nam Bộ để hoàn thành
nội dung theo yêu cầu.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Vùng đồng bằng Sông Cửu Long” (Phần các ngành kinh
tế). Đây là vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm đồng thời là vùng xuất khẩu nông
sản hàng đầu của cả nước. Giáo viên phải xây dựng được vấn đề yêu cầu học sinh giải
quyết là: Vì sao Đồng bằng Sông Cửu Long trở thành vùng sản xuất lương thực lớn
nhất nước ta?
 Để giải quyết được vấn đề này học sinh phải dựa vào các điều kiện tự nhiên -
xã hội đã học ở lớp 8 và phần đầu của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long để hoàn thành
nội dung theo yêu cầu.
2.2. Giải quyết vấn đề:
 Sau khi đã tạo được tình huống có vấn đề, giáo viên hướng dẫn học sinh tiến
hành giải quyết từng vấn đề. Tùy theo từng nội dung cần giải quyết mà áp dụng mức
độ phù hợp từ dễ đến khó, theo các cách sau:
2.2.1. Mức độ 1: Nếu những nội dung giáo viên đưa ra khó học sinh không tự giải
quyết được giáo viên nên áp dụng như sau: 
+ Giáo viên đặt vấn đề rồi nêu cách giải quyết.
+ Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên.
+ Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy phần địa hình Duyên Hải Nam Trung Bộ giáo viên nêu vấn đề
cần giải quyết như sau: Em hãy nhận xét dịa hình từ tây sang đông của vùng Duyên
Hải Nam Trung Bộ?
Đây là nội dung không phải học sinh nào cũng biết, vì vậy giáo viên phải
hướng dẫn và nêu cách giải quyết vấn đề theo các bước sau: Gợi ý bằng các câu hỏi:
Dựa vào sự bố trí màu sắc trên bản đồ từ đó suy ra địa hình phân bố từ tây sang đông
như thế nào? Học sinh dựa vào đó sẽ nhận biết từ tây sang đông địa hình sẽ là núi, gò
đồ, đồng bằng và thếm lục địa. Với phần này, giáo viên tự đánh giá kết quả trả lời của
học sinh để khẳng định kiến thức.
2.2.2. Mức độ 2: Với câu hỏi ở mức độ dễ hơn, thì:
+ Giáo viên đặt vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết.
+ Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề.
 + Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
 Ví dụ: Khi dạy Vùng Đồng Bằng Sông Hồng, giáo viên nêu vấn đề: Vì sao
diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ở Đồng bằng Sông Hồng thấp hơn
nhiều so với trung bình cả nước? Để giải quyết vấn đề này giáo viên cần gợi ý cho
học sinh các vấn đề như diện tích đất tự nhiên của vùng, số dân của vùng, từ đó học
sinh sẽ nhận ra đây là vùng có diện tích đất tự nhiên nhỏ, trong khi dân số đông và
tăng nhanh nên bình quân đất nông nghiệp bình quân theo đầu người thấp.
2.2.3. Mức độ 3: 
+ Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống.
- 5 -
 + Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thiết
và lựa chọn giải pháp.
 + Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi
cần.
 + Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
 Ví dụ: Khi dạy về các ngành kinh tế biển. Phần Phát triển tổng hợp kinh tế
và bảo vệ tài nguyên môi trường biển đảo. Trong mục khai thác và chế biến khoáng
sản biển, giáo viên cung cấp cho học sinh một số thông tin về ngành dầu khí như sau:
Dầu khí là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, nước ta đã xây dựng nhà máy Khí -
Điện - Đạm ở Vũng Tàu, bước đầu chế biến dầu khí phục vụ cho phát điện, sản xuất
phân đạm. 
 Sau khi cung cấp cho học sinh những thông tin trên, giáo viên yêu cầu học
sinh nhận xét về triển vọng của ngành dầu khí ở nước ta. Học sinh dựa vào những
hiểu biết thực tế về ngành dầu khí, nêu được triển vọng của ngành như sau: 
 - Từ năm 1999 dầu thô khai thác được là 15,2 triệu tấn.
 - Năm 2000 là 16,2 triệu tấn.
 - Năm 2002 là 16,9 triệu tấn.
 Qua các số liệu đó, học sinh kết luận được: lượng dầu thô khai thác của nước
ta tăng liên tục từ năm 1999 đến năm 2002 và triển vọng sẽ tăng cao hơn nữa khi tiến
hành khai thác ở khu vực Dung Quất - Quảng Ngãi.
 Như vậy, trong dạy học đặt và giải quyết vấn đề giáo viên đưa học sinh vào
tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề được đặt ra. Bằng cách đó,
học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp đi tới kiến thức đó,
vừa phát triển tư duy tích cực, sáng tạo và có khả năng vận dụng tri thức vào giải
quyết tình huống mới.
2.3. Các bước của dạy học giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải thích vấn đề: 
 Tất cả học sinh đều phải nắm được vấn đề giáo viên đưa ra, những điều mà
một thành viên chưa rõ cần được các thành viên khác giải thích thông qua thảo luận
để làm rõ vấn đề.
2.3.2. Thu thập các vấn đề liên quan:
 Các thành viên trong nhóm cùng nhau thu thập các nội dung cần làm rõ nằm
trong vấn đề cần giải quyết theo nhận thức của nhóm: Tập hợp các kiến thức được
đưa ra, xác định rõ trọng tâm của nội dung cần đạt sau khi có sự thống nhất của nhóm.
2.3.3. Tập hợp các ý kiến của nhóm:
 Tập hợp các kiến thức, những dự đoán của nhóm xung quanh vấn đề cần giải
quyết và trình bày dưới hình thức mà cả nhóm dễ tiếp thu, theo dõi thông qua phiếu
học tập hoặc các bảng biểu có liên quan.
2.3.4. Xác định mục đích học tập cần đạt:
 Xác định những nội dung nào đã biết, những nội dung nào cần tìm hiểu,
cùng nhau xác định rõ những mục tiêu học tập nhằm mở rộng những tri thức đã có.
2.3.5. Tập hợp và thảo luận các nội dung đã nghiên cứu
2.3.6. Nhận xét rút kinh nghiệm về tiến trình, phương pháp làm việc của từng
nhóm: Có thể cho các nhóm nhận xét đánh giá lẫn nhau hoặc giáo viên tự đánh giá.
- 6 -
2.4. Dạy học giải quyết vấn đề thông qua sử dụng các thiết bị dạy học:
 Thực tế dạy học cho thấy việc quan sát và khai thác kiến thức của học sinh
đối với các thiết bị dạy học chỉ đạt hiệu quả nếu trước khi cho học sinh quan sát nhận
xét, giáo viên đưa ra vấn đề cần giải quyết nhằm giúp học sinh biết được cần phải
quan sát cái gì? Phân tích nội dung gì? Giải thích nguyên nhân, nhận xét và khai thác
kiến thức như thế nào?
 Ví dụ: Khi dạy Vùng Đông Nam Bộ phần “công nghiệp” giáo viên cho học
sinh khai thác lược đồ kinh tế vùng Đông Nam Bộ. Trước khi học sinh tiến hành khai
thác lược đồ, giáo viên cần đưa ra các yêu cầu sau:
? Tìm trên lược đồ các trung tâm công nghiệp của vùng, các ngành công
nghiệp của từng trung tâm.
? Giải thích vì sao thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn
nhất của vùng.
 Sau khi đã nắm được vấn đề cần giải quyết mà giáo viên đã định hướng
trước, học sinh sẽ tập trung vào khai thác ngay nội dung chính để nắm được các trung
tâm công nghiệp là: Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Biên Hòa, Thủ Dầu Một.
Trong đó thành phố Hồ Chí Minh tập trung nhiều ngành công nghiệp nhất: Năng
lượng, luyện kim, cơ khí, hóa chất, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản, chế
biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và trở thành trung tâm công
nghiệp lớn nhất của vùng cũng như của cả nước.
2.5. Hệ thống câu hỏi trong dạy học giải quyết vấn đề:
 Các câu hỏi phải thể hiện rõ ràng về yêu cầu và mức độ nhận thức khác nhau
đối với học sinh.
 Câu hỏi để phân loại và phát triển tư duy địa lý cho học sinh cần có các mức
độ khác nhau từ đọc các đối tượng địa lý đến phân tích, so sánh, xác định các mối
quan hệ giữa các đối tượng địa lý. Câu hỏi có tác dụng dẫn dắt học sinh biết, hiểu
được đặc điểm đặc trưng của các đối tượng địa lý và có cách nhìn tổng hợp giữa các
đối tượng địa lý qua các mối quan hệ giữa chúng. 
 Ví dụ: Khi dạy bài 38 Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi
trường biển đảo: Giáo viên cần đưa ra các câu hỏi:
 ? Tại sao phải phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển.
 ? Công nghiệp chế biến thủy sản phát triển sẽ có tác động như thế nào tới
ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. 
 Những câu hỏi như vậy thể hiện rõ mối quan hệ giữa các ngành kinh tế biển
với nhau mà học sinh cần giải quyết, đòi hỏi học sinh phải tích cực vận dụng các mối
quan hệ giữa các ngành kinh tế để trả lời câu hỏi.
 Để phát huy cao độ tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên phải dựa
trên nội dung bài học, nội dung các thiết bị dạy học để nêu câu hỏi thành một số vấn
đề cần làm sáng tỏ và hướng dẫn học sinh tự làm việc với các phương tiện học tập.
Giáo viên cần chú ý yêu cầu học sinh khai thác các nội dung kiến thức “ẩn” trong mỗi
phương tiện, dựa vào đó để phân tích, đánh giá, so sánh, giải thích... trong suốt quá
trình dạy học ở trên lớp, ở nhà và trong cả khi kiểm tra, đánh giá...
 Chúng ta biết rằng, các đối tượng, sự vật địa lý tồn tại trong những mối quan
hệ chặt chẽ. Trong dạy học địa lý, để giúp học sinh hiểu được đặc trưng của các đối
tượng, sự vật địa lý và hiểu được bản chất của những mối quan hệ đó, giáo viên phải
- 7 -
hướng dẫn học sinh sử dụng kết hợp các nội dung kiến thức với thiết bị dạy học để
đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp để rút ra kết luận, giải quyết vấn đề giáo viên
yêu cầu. Việc sử dụng kết hợp các loại phương tiện này sẽ kích thích hứng thú học tập
của học sinh - giúp học sinh chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhận thức.
 Ví dụ: Khi dạy mục: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế (Bài 6: Sự phát triển
nền kinh tế Việt Nam). Để giúp học sinh giải quyết được vấn đề cần đặt ra là: Nhận
xét về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta, giáo viên phải hướng dẫn học sinh
kết hợp quan sát biểu đồ hình 6.1 (Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu GDP từ năm 1991 đến
năm 2002), vừa kết hợp quan sát lược đồ các khu vực kinh tế đồng thời phải nắm
được các nội dung kiến thức trang 20, trang 22 SGK và bảng số liệu về cơ cấu GDP
của các thành phần kinh tế ở trang 23.
 Như vậy, để giải quyết được một vấn đề đòi hỏi phải có sự kết hợp 4 loại
phương tiện liên quan mới đưa ra được kết luận đúng. Kinh tế có sự chuyển dịch
mạnh mẽ: giảm tỉ trọng của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỉ trọng của khu
vực công nghiệp - xây dựng, khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng cao. Cùng với chuyển
dịch cơ cấu ngành là hình thành hệ thống vùng kinh tế với các trung tâm công nghiệp
mới, các vùng chuyên canh nông nghiệp và sự phát triển các thành phố lớn. Hình
thành 3 vùng kinh tế trọng điểm: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng
điểm Miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
2.6. Cách tổ chức hoạt động trong dạy học giải quyết vấn đề:
 - Trong dạy học giải quyết vấn đề, cần chú ý sử dụng mọi biện pháp thúc đẩy
học sinh mạnh dạn nêu thắc mắc và khéo léo sử dụng thắc mắc đó để tạo nên tình
huống có vấn đề, thu hút toàn lớp tham gia thảo luận, tranh luận để giải quyết vấn đề
đó. Như vậy có thể góp phần lấp lỗ hỏng, chữa những sai lầm hoặc hiểu chưa chính
xác những nội dung học tập của học sinh.
 - Cần có thái độ bình tĩnh khi học sinh trả lời sai hoặc thiếu chính xác, tránh
thái độ nôn nóng, vội vàng cắt ngang ý kiến của học sinh khi không thật cần thiết.
Chú ý uốn nắn, nhận xét, bổ sung câu trả lời của học sinh, giúp học sinh hệ thống hóa
tri thức tiếp thu được.
 - Tạo không khí thoải mái sôi nổi trong lớp học để học sinh không quá lo
ngại khi trả lời, các học sinh yếu kém không mặc cảm, tự ti về trình độ nhận thức của
mình, khuyến khích, động viên sự cố gắng của các em.
2.7. Hướng dẫn phương pháp học tập cho học sinh:
 Dù dạy học theo phương pháp gì thì mục đích cuối cùng là học sinh nắm
được kiến thức và biết vận dụng tốt. Nếu giáo viên dạy tốt mà không hướng dẫn cho
học sinh cách học tốt thì chắc chắn kết quả sẽ không như mong muốn. Vì vậy giáo
viên cần chú ý hướng dẫn cách học cho học sinh theo những định hướng sau:
 - Yêu cầu học sinh phải tự giác, tích cực và tạo thói quen tư duy lôgic, tích
cực tham gia xây dựng bài.
 - Phải thường xuyên liên hệ kiến thức đã được học với kiến thức thực tế qua
quan sát hoặc qua các phương tiện thông tin và ngược lại từ kiến thức hiểu được qua
thực tế để rút ra bài học trên lớp.
 - Hướng dẫn cho học sinh thường xuyên đưa ra những câu hỏi, những thắc
mắc cần giải quyết, điều đó giúp học sinh có ý thức trách nhiệm hơn trong việc tự giải
quyết vấn đề và sẽ hiểu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn vì có chủ định.
- 8 -
 - Trong học tập cần có sự so sánh, đối chứng, phân tích các bảng, biểu, lược
đồ để nắm kiến thức một cách chắc chắn.
 - Yêu cầu học sinh phải có sự hợp tác tốt trong hoạt động nhóm, mạnh dạn
thể hiện ý kiến của mình trước nhóm, tích cực tham gia tranh luận những vấn đề còn
vướng mắc để cùng làm sáng tỏ vấn đề cần giải quyết.
 - Tập cho học sinh thói quen quan sát, ghi lại những hiện tượng, đối tượng
địa lý và tự đặt câu hỏi, giải thích để đưa ra nhận định.
 - Thường xuyên làm bài tập, có thói quen tốt trong việc trao đổi với bạn nếu
có những vấn đề chưa hiểu rõ.
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN MANG LẠI
 Với việc áp dụng cách dạy học như đã nêu trên kết hợp những giải pháp nâng
cao chất lượng dạy và học, kết quả chất lượng bộ môn Địa lý 9 ở trường THCS Quang
Trung qua đợt thi chất lượng cuối năm học 2016 - 2017 đạt được như sau:
Tổng số HS tham gia dự thi là 76 em
- Điểm 8,0 đến 10: 20 em đạt 26,3%
- Điểm 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_tinh_tich_cuc_cua_hoc_sinh_qu.pdf