Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 7 phương pháp tích hợp của 3 phân môn Tập làm văn - Văn - Tiếng Việt cho học sinh trung bình và yếu cụ thể qua tiết: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch

Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 7 phương pháp tích hợp của 3 phân môn Tập làm văn - Văn - Tiếng Việt cho học sinh trung bình và yếu cụ thể qua tiết: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch

Tìm hiểu kỹ Lý Bạch, Lý Bạch là nhà thơ luôn tìm đến ánh trăng để dựa vào thơ của mình đặc biệt trong bài "Vọng nguyệt hoài hương" "Trông trăng nhớ quê". Cách thể hiện giản dị và độc đáo.

 Xuất phát từ tình yêu trăng quê nhà thơ Lý Bạch đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy mỗi lần thấy trăng là lại thấy quê nhà.

 Ngoài kiến thức (SGK) người đọc còn thấy được thiên nhiên vốn là đề tài đặc hữu của thơ Đường. Nó lại càng có địa vị nổi bật trong thư Lý Bạch. Nhân dân lao động Trung Quốc mãi có quyền tự hào về những bức tranh thiên nhiên tráng lệ.

 

doc 17 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 2613Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ văn 7 phương pháp tích hợp của 3 phân môn Tập làm văn - Văn - Tiếng Việt cho học sinh trung bình và yếu cụ thể qua tiết: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xa trung tâm điều kiện quan tâm đến giáo dục của cha mẹ học sinh còn rất ít. Học sinh còn làm việc nhà quá nhiều chiếm 2/3 thời gian của chúng, học sinh chỉ được học 4 tiếng trên lớp. Đa số không chuẩn bị chu đáo, thời gian giành cho việc học rất ít. Song phương pháp mới đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị dành thời gian nhiều. Chúng rất ham chơi chưa xác định rõ vai trò của việc học là rất quan trọng. Đây chính là khó khăn bước đầu rất nan giải, là giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy tôi luôn trăn trở để làm sao có những phương pháp hướng dẫn tích cực nhất, lôi kéo học sinh say mê môn Ngữ văn và đặc biệt học sinh học lực trung bình yếu.
2- Kết quả:
Qua việc khảo sát ở học kỳ II (2004-2005) tôi thấy số lượng học sinh khá giỏi ít mà trung bình và đặc biệt yếu chiếm 30%. Làm cách gì để xoá 30% yếu khi khảo sát môn Văn ở trường là một trong nhiệm vụ mà yêu cầu đặt ra của người dạy như tôi phải suy nghĩ. Năm học 2005-2006 tôi được chuyên môn phân dạy môn Văn 7, tôi đã mạo muội áp dụng phương pháp giảng dạy mới theo hướng tích cực và sáng tạo suy nghĩ của bản thân. Đã đem lại kết quả báo cáo ở học kỳ I, trong lớp mà trước kia môn Ngữ văn không nói là yếu thì học sinh khá giỏi đạt rất ít học là không có trong cả năm học.
3- Để công việc đạt hiệu quả:
Tôi xin phép được đưa ra đề tài và một vài kinh nghiệm khi giảng dạy và tiếp cận môn "Ngữ văn 7 phương pháp tích hợp của 3 phân môn Tập làm văn - Văn - Tiếng Việt cho học sinh trung bình và yếu cụ thể qua tiết: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch".
B- Giải quyết vấn đề:
I/- Các giải pháp thực hiện:
Một vài phương pháp để dạy tốt tiết Ngữ văn "Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch cho học sinh lực học trung bình và yếu"
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trong vấn đề dạy học và học môn Ngữ văn 7 đặc biệt bài các tiết dạy văn học cổ nước ngoài nhìn chung việc đưa tiết bài chương trình Ngữ văn 7 có nặng về kiến thức và hoàn toàn mới về thể loại văn học Việt Nam. Đặc biệt hơn học sinh có lực học trung bình và yếu sẽ là vấn đề không thể nói là khó của người dạy học sinh.
Sau một thời gian đào sâu suy nghĩ, giáo viên cần chuẩn bị nội dung sau khi hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm: Tĩnh Dạ Tứ
1- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu thân thế sự nghiệp văn chương:
a) Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Lý Bạch:
Ngoài kiến thức sách giáo khoa, giáo viên cần hiểu, nắm chắc hơn nữa về cuộc đời và sự nghiệp văn chương hoàn cảnh ra đời bài thơ "cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh".
Lý Bạch là nhà thơ lãng mạng, thiên tài "Tính chất lãng mạn trong thơ Lý Bạch được thể hiện rõ rệt nhất ở hai khía cạnh say rượu và cầu tiên học đạo". Tại sao lại gọi ông là nhà thơ lãng mạn, trước tiên chúng ta cần dạy thuật ngữ "lãng mạn" là gì? cho học sinh hiểu.
Lý bạch là người kế thừa tư tưởng Lão Trang về mặt nhận thức đối với quy luật tự nhiên. Ông không bằng lòng nhắm mắt đưa chân để cho con quay tạo xoay vầnm đến đâu. Ông luôn luôn vùng vẫy và để cướp lấy thời gian, ông khuyên con người luôn vui say cho thoả đáng, ông một nhà triết lý với đời, một tinh thần phản kháng hoặc một giọng mỉa đời kín đáo.
- Bên cạnh đó những tác phẩm của ông mang tính hiện thực lúc bấy giờ. Ông sống vào khoảng thời đại Thịnh Đường, bên cạnh cái vẻ hưng thịnh của đời Đường thì vẫn còn tồn tại những cảnh đời đau thương ngang trái. Vua chúa hoang dâm vô đạo, qua lại tham tàn bạo lực, ức hiếp dân lành, bạc đãi nhân tài, hiệp sỹ. Lý Bạch là nhà thơ trẻ yêu nước có nhiều hoài bão lớn, gặp phải cảnh đời như vậy nên ông rất chán ghét, thường lấy rượu làm vui, thơ ông thoát ra một giọng u buồn, bất mãn khinh miệt công danh.
Đứng trước cảnh đời giàu nghèo khác nhau Lý Bạch đã thay mặt cho tầng lớp trí thức tiến bộ tỏ ý khinh công danh và ghẻ lạnh với cuộc đời phú quý. Như vậy là sự thách thức đối với giai cấp thống trị.
b) Hoàn cảnh sáng tác:
Nhiều bài thơ ông sáng tác trong tâm trạng đấu tranh day dứt vì thơ ông chủ yếu là lãng mạn và hiện thực. Ông có 50 bài cổ phong, tiêu biểu là bài Trương Tiến Tửu, Mộng du Thiên Mu, Ngâm và Tây thượng Liên Sơn.
Giáo sư: Nguyễn Khắc Phi đã nhận xét: "Đại bộ phận thươ Lý Bạch là thơ trữ tình. Qua đó có thể dựng lại hình ảnh, tâm tư của một tri thức có hoài bão, có tài năng sống trong điều kiện một chế độ chuyên chế".
Qua đây ta thấy rõ Lý Bạch là nhà thơ vĩ đại, một trong hai ngôi sao chói lọi nhất trong thời Đường. ông đã kế thừa và phát huy truyền thống lãng mạn tốt đẹp của dân ca Trung Quốc và của các nhà thơ lớn đặc biệt là Khuất Nguyên.
Trong thơ ông lý tưởng tự do, tinh thần phản kháng và tính cách anh hùng đều được phát triển cao độ.
Ông được đời sau gọi là "nhà thơ tiên" không phải vì ông đã sống một cuộc đời lãng mạn mà thơ ông có chí khí ngang tàng, phong cách thanh tao có lúc siêu phàm thoát tục như Đỗ Phủ nói:
"Hạ bút thì kinh mưa động gió
Câu thơ thành thi quỷ khốc thần sầu"
Có thể nói cuộc đời của Lý Bạch gắn liền xã hội đương thời lúc bấy giờ. Một tâm hồn lãng mạn thanh cao đã sản sinh nhiều tác phẩm nổi tiếng có giá trị hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông đã giành những đòn mạnh mẽ vào bộ mặt xã hội phòng kiến đương thời, sự gắn bó cuộc đời thơ cách mạng đã đem đến âm hưởng rất thú vị giữa cuộc đời đầy sóng gió. Các ý tưởng cách mạng của ông lúc bấy giờ là phản áh cuộc sống chân thực bức trang quê hương sống động. Thể hiện trong cuộc sống tình yêu của tác giả. trong tư tưởng nhân văn trong sáng đầy nhân hậu thanh tao.
Được sáng tác nhiều bài trong tâm trạng đấu trang day dứt như vậy. Thơ ca Lý Bạch căn bản là lãng mạn nhưng đồng thời cũng có bao hàm nhiều yếu tố hiện thực. Ông kết hợp chủ nghĩa lãng mạn với chủ nghĩa hiện thực một cách tài tình sau Khuất Nguyên.
Trong cách nói khoa trương và nhân cách hoá phóng đại của nhà thơ không thoát ly cơ sở hiện thực, lời tuy quá những tả mối sầu dằng dặc của con người dưới chế độ phong kiến.
Ông là nhà thơ lãng mạn nhưng về mặt lý luận thơ ca, ông là người kế thừa chủ nghĩa "Phục cổ cách tân" của Trần Tứ Ngang đời sơ Đường. Ông cực lực phê phán chủ nghĩa hình thức và thơ ca uỷ mị của lực Triểu và đề cao văn học có nội dung lành mạnh của Khuất Nguyên, Tào Thục, Tạ Linh Vân, Tá Điểu, Dẫu Tín, Bảo Triều.
Trong các bài thơ của ông có thiên nhiên và hoá cỏ cây, song vẫn mang âm hưởng ấm nồng lạnh cảm xúc nhân ái của con người, hoa lá nỗi niềm tâm sự luôn vươn tới sự thanh tao.
Thơ Lý Bạch thể hiện đúng con người của ông, con người đó đáng thương hay đáng ghét, không phải đến bây giờ vấn đề mới được đặt ra. Trong bài thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ có viết:
Người đời đều muốn giết
Riêng ta luống thương tài
	Trong một bài thơ khác Đỗ Phủ có khuyên Lý Bạch nên cảnh giác đối với bọn quan ô lại:
Sông sâu, sóng nước, không bờ
Giữ mình chớ để sa cơ, thuông luồng
	Chính vì giai cấp thống trị ghét bỏ Lý Bạch cho nên nhân dân lao động rất mến ông đặt ra nhiều truyền thuyết tốt đẹp về đời sống của ông. Họ mời ông về nhà múa hát để tiễn ông. Ông được coi như bậc đàn anh Đỗ Phủ.
Thơ Lý Bạch ai đương
Phiêu nhiên tài tử, hiên ngang hơn người.
	ảnh hưởng thơ của ông đối với người đời thật là lớn - ở đời Tưởng, Pháp Têôphin Gochie - Bôđôlerơ. Trong thơ ca Việt Nam chúng ta, ảnh hưởng của Lý Bạch rất lớn.
	2- Hướng dẫn cụ thể học sinh địc và tìm hiểu tác phẩm:
a) Hướng dẫn học sinh thuộc văn bản cả chữ Hán - Việt:
* Chữ Hán:
Sáng tiền minh Nguyệt quang
Nghi thị địa thương sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
* Dịch nghĩa:
ánh trăng sáng đầu giường
Ngỡ là sương mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê hương
* Dịch thơ:
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê hương
(Tương Như)
	Với đối tượng học sinh trung bình yếu việc tiếp cận tác phẩm văn chương là vô cùng khó khăn vì vậy giáo viên hướng dẫn học sinh đọc học những từ khó, từ Hán Việt sang Tiếng Việt.
1. Tĩnh đ Im lặng
2. Dạ đ Đêm
3. Tứ đ ý tứ hoặc cảm nghĩ
4. Sàng đ Giường
5. Tiên đ Trước
6. Minh đ Sáng
7. Nguyệt đ Trăng
8. Quang đ ánh sáng
9. Nghi đ Ngờ
10. Thị đ Là
11. Địa đ Đất
12. Thượng đ Trên
13. Sương đ Sương
14. Cử đ Cất lên, nâng lên
15. Đầu đ Đầu
16. Vọng đ Trông xa
17. Đê đ Cúi
18. Tư đ Lo nghĩ, nhớ
19. Cố đ Củ
20. Hương đ Làng
	Sau khi cho học sinh lập bảng ở nhà và học thuộc lòng các từ đã dịch ra tiếng Việt để thấy được sự khác nhau giữa phiên âm và bản dịch. Người dịch đôi khi để phù hợp cho ăn khớp hoặc cho nó vần, hoặc là tuỳ thuộc vào sự cảm nhận hiểu biết chữ Hán của người dịch dẫn đến sự sai lệch hoặc đôi khi là sự nhầm lẫn nào đó giáo viên đưa câu hỏi để học sinh trả lời tự tìm hiểu ở nhà.
	Câu 1: Hãy so sánh 21 từ trong bản phiên âm và bản dịch thơ có nét gì khác nhau.
Học sinh phải tìm được sự khác nhau như sau:
Phiên âm
Thơ
Đầu đề bài thơ là cảm nghĩ trong đêm yên tĩnh
Từ: Sàng
Ngữ: ánh trăng rọi
Từ: Ngỡ
Từ: Thượng, là
Câu: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩch
Đầu
Ngữ: ánh trăng sáng
Từ: Ngờ
Từ: Trên, phủ
Câu: Nâng đầu lên trông trăng sáng
	Trong bản phiên âm chữ Hán và bản dịch thơ có nhiều từ không cùng nghĩa với nhau, bản dịch thơ không phù hợp với ý tưởng của tác giả và người dịch có phần làm mất đi cái hồn của thơ Đường. Đây chính là sự khác nhau mà yêu cầu học sinh và giáo viên phải biết nắm chắc kiến thức và cách học dạy để làm sáng rõ ý tưởng của tác giả.
	Yêu cầu giáo viên lên lớp giải thích rõ điểm chưa tìm được cho học sinh và giải thích cho học sinh thấy thông qua phiếu học tập. Nếu giáo viên hiểu và giải thích chặt chẽ, học sinh hiểu ngay ở trên lớp để tiếp cận nội dung của văn bản và đi vào khai thác văn bản một cách nhanh nhất.
	b) Học và tìm hiểu kỹ chú thích:
	Tìm hiểu kỹ Lý Bạch, Lý Bạch là nhà thơ luôn tìm đến ánh trăng để dựa vào thơ của mình đặc biệt trong bài "Vọng nguyệt hoài hương" "Trông trăng nhớ quê". Cách thể hiện giản dị và độc đáo.
	Xuất phát từ tình yêu trăng quê nhà thơ Lý Bạch đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy mỗi lần thấy trăng là lại thấy quê nhà.
	Ngoài kiến thức (SGK) người đọc còn thấy được thiên nhiên vốn là đề tài đặc hữu của thơ Đường. Nó lại càng có địa vị nổi bật trong thư Lý Bạch. Nhân dân lao động Trung Quốc mãi có quyền tự hào về những bức tranh thiên nhiên tráng lệ.
Vì vậy thơ Lý Bạch luôn thể hiện ánh trăng, cảm xúc về trăng luôn là đề tài nung cấu trong ông.
Sàng - Tiền Minh Nguyệt Quang
Nghi thị địa thượng Sương
Cử đầu vọng minh Nguyệt
Đê đâu tư cố hương.
Đây là bài thơ chỉ vẻn vẹn có 20 chữ. Nhưng nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thuỷ mạc đẹp và có hồn.
Một đêm thanh tĩnh mịch. Nhưng chỉ có trăng sáng vào muôn nơi đầu giường cửa sổ. Về khuya ánh trăng lại càng sáng, sáng chói. Trăng khơi dậy một nguồn thơ và là chất liệu tạo nên thơ.
Trong 4 câu thơ thì chỉ có ba câu mô tả cảnh, đúng hơn là một câu tả ánh trăng soi, hai câu khác mô tả "Cái ngỡ ngàng, cái ngẩng đầu nhìn trăng" vì trăng sáng quá, đẹp quá, trăng lại với nhà thơ như đôi bạn tri âm, nhòn nhau, thăm hỏi làm cho ai đó bồi hồi "Cúi đầu nhớ quê hương".
Ta chú ý sự có mặt hai động từ "ngẩng đầu, cúi đầu" trong câu thơ, tác giả rất muốn ngắm trăng, nhìn trăng đã nâng đầu lên song lại cúi ngay xuống vì trăng quá đẹp. Tác giả đã nhớ đến quê nhà như câu của Chế Lanm Viên:
"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn"
Vì nhà thơ quê ở đất Ba Thục thủa nhỏ thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng. Vì thế "ánh trăng" và "quê hương" hoà quyện, gắn bó với nhau thành một sự liên tưởng sâu sắc trăng và quê hương.
Như vật từ ngoại cảnh "ánh trăng" đã đi vào nội tâm. Bởi vậy hai câu thơ này khép lại bài thơ như mở ra một tâm trạng trĩ nặng lòng nhớ cố hương - nhớ đất Ba thục đã máy chục năm trời. Bao kỷ niệm thời trai trẻ, những quãng đời thăng trầm từ khi xa quê hương làng xóm.
Cái "cúi đầu" của nhà thơ sao mà xúc động nghẹn ngào, bài thơ đã dứt và tình ý còn man mác trong lòng người.
* Thể thơ:
Ngũ ngôn tứ tuyệt đường luật
Cả bài 4 câu - 20 tiếng.
* Vần thơ: 	Câu 1 - 3 không vần
	Chỉ 2 - 4 vần ở tiếng cuối
(Vần chân đ ương)
* Nhịp thơ: 2/3
II/- Các biện pháp tổ chức thực hiện tìm hiểu tác phẩm theo quan điểm tích hợp:
Tích hợp 3 phân môn: Tiếng Việt + Ngữ văn + Tập làm văn
* Cụ thể 3 tiết: 	(1) Tĩnh dạ tứ
	(2) Từ trái nghĩa
	(3) Luyện tập văn biểu cảm về sự vật con người
1- Hướng dẫn học sinh học ở nhà:
(Đọc thuộc bài ở nhà theo cách hướng dẫn của giáo viên và sưu tầm một số tác phẩm thơ Lý Bạch).
1. Bài xa ngắm thác núi Lữ.
2. Đường đi khó (Hành lộ nan)
3. Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạch Hạo Nhiến đi Quảg Đông.
4. Tương Tiến Tửu.
5. Mộng du thiên mụ ngân lưu biệt.
6. Tây thượng liên hoa sơn v.v...
Giáo viên đưa bản phiên âm hoặc dịch thơ cho học sinh nghiên cứu về thơ Lý Bạch cùng với sưu tầm một số tác phẩm Lý Bạch.
Sau khi học và sưu tầm thơ Lý Bạch em có nhận xét gì về cách thể hiện trong thơ của ông một cách chung nhất.
2- Tìm hiểu chi tiết văn bản:
Bằng quan điểm tích hợp qua chùm câu hỏi gợi mở.
* Hai câu thơ đầu:
1. Em có nhận xét gì khi thay từ Sàng (giường) bằng một từ khác chẳng hạn từ "án, trác" thay từ Nghi "ngỡ là, tưởng là" ý tứ câu thơ như thế nào?
Học sinh trả lời: Từ Sàng có nghĩa là nhà thơ đang nằm mà ngắm trăng, nằm không ngủ nhìn thấy ánh trăng xuyên qua cửa. Nếu thay các từ án trác cây thơ thay đổi ý nghĩa.
Trong một đêm trăng tha hương, Lý Bạch đã trằn trọc không ngủ được. Trong tâm trạng ấy (Có thẩy chợt ngủ rồi lại tỉnh và không sao ngủ tiếp được nữa).
Chữ Nghi "ngỡ là, tưởng là" và chữ Sương đã xuất hiện một cách tự nhiên, hợp lý. Vì trăng quá sáng chuyển thành màu trắng giống như sương là một điều có thật.
"Dạ nguyệt tự thu sương
Trăng đêm giống như sương thu"
(Tiêu Cương)
Câu 2: Ngay ở 2 câu đầu tác giả đã thể hiện tình cảm của mình như thế nào?
Học sinh trả lời: Tác giả thể hiện hai câu đầu phải chữ thuần tả cảnh, tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên cảnh vật để nói lên suy nghĩ tình cảm của túc vào hư không, nơi đó thể hiện tình yêu lòng cảm xúc về trăng, đẹp đến mức tác giả không thể nào nhắm mắt được.
Câu 3: Trong suy nghĩ của em, em nghĩ gì cách thể hiện của tác giả trong câu thơ, thơ tả cảnh này?
Học sinh tự thảo luận đưa ra ý kiến của mình.
* Hai câu cuối:
Học sinh đọc diễn cảm:
Cử đầu vọng Minh Nguyệt
Đê đầu tự cố hương
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương)
Em có nhận xét gì nghề thuật sử dụng trong hai câu cuối của tác giả?
đ Dùng biện pháp so sánh và từ trái nghĩa "Cử đầu đ đê đầu".
Ngẩng đầu lên đ Cúi đầu xuống
Câu 4: Tìm từ trái nghĩa qua những bài thơ văn em đã học?
Nhắc lại kiến thức từ trái nghĩa là gì? Từ trái nghĩa học sinh tự tìm hiểu giáo viên chốt: Học kỹ tìm hiểu ở tiết sau.
Câu 5: Tác giả thành công biện pháp nghệ thuật gì? Tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó như thế nào?
Trong văn bản đặc biệt 2 câu cuối có 3 từ "Cố hương" là trực tiếp tả tình, còn lại tả hành động của chủ thể chữ tình.
Chữ "Cử, vọng, đê" thể hiện hành động tân trạng cụ thể nhất.
Từ "vọng " trong bài thơ của Lý Bạch cho thấy rõ hơn 2 nét nghĩa: Từ xa còn ngóng trông.
Còn từ khác trong thơ ca chỉ mang ý nghĩa (nhìn, trông).
Câu 6: Em có nhận xét gì về tì năng của Lý Bạch? Cái cảm xúc riêng biệt thể hiện trong bài thơ ông?
Học sinh trả lời: (Học sinh thảo luận trả lời độc lập)
Tài năng của Lý Bạch là ở chỗ, ông đã sử dụng rát tài tình câu thơ của cố nhân trong một hoàn cảnh cảm xúc của riêng mình. ở vị trí câu thơ thứ 3, câu thơ đóng vai trò bản lề để người viết hạ câu thơ kết thúc thật sâu, thật hay. Hành động ngẩng đầu xuất hiện như một động tác tất yếu để kiểm nghiệm điều mà câu thơ thứ 2 đặt ra: Sương hay trăng.
Ngẩng đầu, cuối đầu không phải chỉ để nhìn sương, trăng mà là cách nhìn trăng để liên tưởng đến sự cô đơn, lạnh lẽo như mình, nhìn trăng để nhớ về quê hương, nghĩ về nơi mình đã sinh ra.
Trong cái cuối đầu, ngẩng đầu chỉ có trong khoảnh khắc đã đông mối tình quê. Ta đủ thấy tình cảm đó, thường trực và sâu sắc biết bao.
Nhớ quê, không ngủ, thao thức nhìn trăng. Nhìn trăng lại càng nhớ quê da diết.
Cái độc đáo trong thơ Lý Bạch khi ngẩng đầu đã có cuối đầu, các hành động nối tiếp nhau.
Cuối đầu lần thứ nhất là hướng ra ngoại cảnh.
Cuối đầu lần thứ 2 là hướng vào lòng mình, trĩu nặng, tâm.
? Vậy bài thơ có phải chỉ để tả cảnh, ca ngợi cái đẹp đêm trăng không? Bài thơ không chỉ tả cảnh nhụ tình, không có từ suy nghĩ, lo âu, trằn trọc nặng trĩu tâm tư mà người độ vẫn hiểu được. Đó là bài thơ không chỉ nói tâm trạng Lý Bạch mà cũng là tâm trạng cuả nhiều người cùng thời mà thậm chí ở nhiều thời đại khác nhau vẫn tìm thấy sự cộng hưởng, đồng cảm với nhà thơ.
Đó chính là tính điển của cảm xúc trong thơ trữ tình.
Câu 7: Tìm bài thơ chữ Hán có sử dụng từ "Ngẩng đầu, cúi đầu" mà em biết?
Ví dụ: Thượng Sơn
	Lục nguyệt nhị thập tứ
	Thướng đáo thử sơn lai
	Cúi đầu hồng nhật cận
	Đối ngạn nhất chi mai
Dịch thơ; Lên núi
	Hai mươi tư tháng sáu
	Lên đỉnh núi này chơi
	Ngẩng đầu mặt trời đỏ
	Bên suối một nhành mai
	(Tố Hữu dịch)
Sau khi cho học sinh tìm hiểu tác giả và tác phẩm bằng cách hướng dẫn các phương pháp tiếp cận văn bản, bằng phương pháp cho học sinh tiếp cận tác phẩm thông qua các hình thức câu hỏi gió viên chuẩn bị sắp xếp một cách hấp dẫn, phù hợp với từng văn bản, phát huy tính sáng tạo độc lập, tự học của học sinh nhằm hướng tới "Chân - Thiện - Mỹ" hoàn thành nhân cách toàn diện.
Câu 8: Bài thơ có sư dụng phương tiện biểu cảm và sự tự miêu tả, hãy nêu rõ phương tiện biểu cảm trong 4 câu thơ trên?
	* Quan điểm thích hợp giữa 3 phan môn: Tiếng Viêt + Tập làm văn và Văn là phương pháp tích cực nhất, giúp học sinh cảm nhận tiếp cận tác phẩm văn chương.
	3- Phương pháp nêu vấn đề:
	áp dụng câu hỏi nêu vấn đề gợi mở thu hút chú ý của học sinh làm việc tích cực.
	Câu 1: Em hiểu gì về thơ Lý Bạch? nêu những đóng góp của ông cho nền văn học thời Đường?
	Câu 2: Em suy nghĩ gì của bản phiên âm và dịch thơ "Tĩnh dạ tứ"?
	Câu 3: Em hãy so sánh tác phẩm "Tỉnh dạ tứ" và bài "Hồi hương ngẫu thư" của Hạ Tri Chương.
	Câu 4: Sự cảm nhận của em sau khi học xong tác phẩm "Tĩnh dạ tứ" là gì? Vì sao?
	Câu 5: Hãy viết một đoạn văn nói lên tình cảm của em giành cho tác phẩm.
	4- Phương pháp dùng đồ dùng trực quan:
	Với học sinh trung bình yếu giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị đồ dùng trực quan. Qua 2 lớp dạy việc sử dụng đồ dùng trực quan với học sinh thu hút được sự chú ý của học sinh làm việc một cách say mê tích cực đem lại hiệu quả cao. Vì vậy giáo viên hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị một số nội dung sau:
	- Chuẩn bị tranh ảnh có liên quan đến Lý Bạch.
	- Sưu tầm thơ ca Lý Bạch.
	- Sưu tầm các bài viết Lý Bạch, giấy bóng trong, bút giáo viên.
	- Chuẩn bị câu hỏi viết giấy bóng trong đưa máy chiếu.
	- Máy chiếu và tranh ảnh vẽ đưa máy chiếu.
	- Chuẩn bị phần đáp án nếu học sinh không trả lời được in cho học sinh.
	- Yêu cầu học sinh học thuộc lòng.
	- Sử dụng hướng dãn học sinh sử dụng thành thạo.
	Thông qua kênh chữ và kênh hình học, học sinh và hiểu được nội dung của bài học.
	5- Phương pháp dùng phiếu kiểm tra:
	Bằng hình thức trắc nghiệm: 
	Ví dụ: Hãy đánh dấu đúng cho câu hỏi sau: (Chọn câu trả lời đúng).
	Câu 1: Bài thơ "Tình dạ tứ" viết bằng thể loại sau:
	+ Tứ tuyệt
	+ Thất ngôn tư tuyệt
	+ Ngũ ngôn tư tuyệt
	Câu 2: Bài thơ viết theo vần.
	a) Câu 1 vần câu 3
	b) Câu 2 vần câu 3
	c) Câu 2 vần câu 4 ở tiếng cuối vần chân
	Câu 3: Văn bản trên có 4 chỗ dùng từ phiên âm và chữ Hán không khớp.
	Có 4 chỗ giữa phiên âm và dịch thơ không khớp về nghĩa.
	a) Từ ngỡ -> Ngỡ
	b) Từ ánh trăng rọi -> ánh trăng của trăng
	Câu 4: Trong văn bản có:
	a) 4 cặp từ trái nghĩa
	b) 2 cặp từ trái nghĩa
	c) 3 cặp từ trái nghĩa
	Câu 5: Trong văn bản: Có sử dụng phương thức biểu đạt sau:
	a) Miêu tả
	b) Tự sự
	c) Biểu cảm
	Câu 6: Trong văn bản Tĩnh dạ tứ có sử dụng các động từ:
a. 1 động từ
b. 2 động từ
c. 3 động từ
Câu 7: Bài thơ Tĩnh dạ tứ được viết theo phong cách lãng mạn hiện thực.
Câu 8: Lý Bạch là nhà thơ lãng mạn hiện thực em có đồng ý không? Vì sao?
Giáo viên phát biểu và đưa câu hỏi lên máy chiếu học sinh làm việc theo nhóm gọi những học sinh học lực trung bình và yếu lên bảng làm cho học sinh nhận xét đứng lại chỗ sửa sai trên máy, lần lượt 1 - 3 lần học sinh trung bình, yếu sẽ

Tài liệu đính kèm:

  • doc27-4-2006 Mon Ngu Van THCS.doc