Khi tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giáo viên liên hệ kiến thức lịch sử giúp học sinh ôn lại đôi nét tình hình chính trị lúc bấy giờ. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp phát vấn trong khoảng thời gian tối đa là 5 phút, huy động kiến thức lịch sử học sinh đã được học, yêu cầu học sinh nêu vài nét về tình hình trong nước và thế giới năm 1945. Trên cơ sở học sinh trình bày, giáo viên nhấn mạnh một số ý cơ bản:
Về tình hình thế giới: Năm 1945, quân phát xít đứng trước nguy cơ thua trận, quân Đồng minh trên đà chiến thắng, trước tình hình đó, nhiều nước đế quốc đã nhòm ngó Đông Dương - thuộc địa cũ của Pháp nay đang mất về tay Nhật. Không đếm xỉa đến chủ quyền của Việt Nam, hội nghị Pốtxđam tháng 7-1945 quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, còn quân Tưởng Giới Thạch vào từ vĩ tuyến 16 trở ra. Tướng Đờ Gôn thì tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm năm "nước tự trị": ngoài Lào, Campuchia còn có ba "nước" Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, tất cả đặt dưới sự lãnh đạo của quan toàn quyền Pháp! Như vậy các lực lượng thù địch đang lăm le tái chiếm nước ta, ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (thay mặt đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, ở miền Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, tay sai của đế quốc Mỹ, đã chực sẵn ở biên giới; mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Mỹ và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương. Trong khi đó, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai này, thực dân Pháp đã tung ra những lý lẽ trong dư luận Thế giới rằng: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên sau khi phát xít Nhật bị quân đồng minh đánh bại.
ng hiểu biết của mình về lịch sử để làm rõ từng khía cạnh, từng hình tượng trong tác phẩm thì học sinh sẽ tiếp thu rất nhanh và có ấn tượng sâu sắc về tác phẩm. Ngược lại, nếu giáo viên không gắn liền nội dung tác phẩm với hoàn cảnh lịch sử thì học sinh sẽ khó hình dung về hình tượng văn học, thậm chí ở một số tác phẩm nếu giáo viên không đặt trong hoàn cảnh ra đời cụ thể, gắn với những sự kiện lịch sử cụ thể, thì học sinh sẽ không thể hiểu đúng được về tác phẩm. Ví dụ khi dạy bài "Tây Tiến" trong chương trình Ngữ văn 12 tập một, giáo viên cần đặt bài thơ trong hoàn cảnh ra đời: "Tây Tiến" là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, giữa những ngày đầu vô cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Quang Dũng có mặt trong đoàn quân Tây Tiến từ ngày đầu thành lập, là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây), Quang Dũng nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này, ban đầu đặt tên là Nhớ "Tây Tiến", sau đổi lại là "Tây Tiến". Học sinh hiểu hoàn cảnh ra đời bài thơ gắn với mốc lịch sử của dân tộc ta trong kháng chiến chống Pháp, chính là cơ sở để hiểu nỗi nhớ của nhà thơ về đơn vị cũ, cũng là cảm xúc chủ đạo chi phối, xuyên suốt cả 3 khổ thơ trong bài thơ "Tây Tiến". 3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 3.1. Cách dạy tích hợp Trong các giờ giảng văn, giáo viên lựa chọn những bài giảng phù hợp để tích hợp kiến thức lịch sử. Cách làm của giáo viên phải linh hoạt, khéo léo, cần đảm bảo kiến thức trọng tâm của bài học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định. Việc vận dụng tích hợp kiến thức lịch sử chỉ nhằm làm cho bài học thêm sinh động, khắc sâu thêm kiến thức, phát huy khả năng liên hệ, chủ động, tích cực của học sinh. Tuyệt đối không lạm dụng kiến thức lịch sử để biến giờ giảng văn thành giờ dạy lịch sử, không liên hệ quá lan man làm mất trọng tâm của bài học, không làm phân tán sự chú ý của học sinh, đồng thời việc lựa chọn kiến thức lịch sử để đưa vào bài học phải đảm bảo tính phù hợp, hiệu quả, đảm bảo tính chính xác của sự thật lịch sử, có như vậy mới thuyết phục được học sinh và nâng cao được hiệu quả của tiết dạy. Về cách thức tích hợp, giáo viên có thể liên hệ kiến thức lịch sử ở mọi thời điểm trong bài giảng như: mở đầu tiết dạy, giới thiệu bài mới, tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, hay trong quá trình đọc - hiểu từng phần của bài học Tùy theo kiến thức lịch sử khó hay dễ, học sinh đã được học trong môn lịch sử hay chưa từng được học, mà giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp như: phát vấn học sinh, giảng giải, thuyết trình, bình luận về kiến thức lịch sử. 3.2. Một số ví dụ minh họa 3.2.1. Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy bài "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh. “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận Việt Nam, vừa có giá trị như một áng thiên cổ hùng văn của muôn đời, vừa là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng, tuyên bố về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 12 tập một. a. Tích hợp kiến thức lịch sử khi tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Khi tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, giáo viên liên hệ kiến thức lịch sử giúp học sinh ôn lại đôi nét tình hình chính trị lúc bấy giờ. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp phát vấn trong khoảng thời gian tối đa là 5 phút, huy động kiến thức lịch sử học sinh đã được học, yêu cầu học sinh nêu vài nét về tình hình trong nước và thế giới năm 1945. Trên cơ sở học sinh trình bày, giáo viên nhấn mạnh một số ý cơ bản: Về tình hình thế giới: Năm 1945, quân phát xít đứng trước nguy cơ thua trận, quân Đồng minh trên đà chiến thắng, trước tình hình đó, nhiều nước đế quốc đã nhòm ngó Đông Dương - thuộc địa cũ của Pháp nay đang mất về tay Nhật. Không đếm xỉa đến chủ quyền của Việt Nam, hội nghị Pốtxđam tháng 7-1945 quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, còn quân Tưởng Giới Thạch vào từ vĩ tuyến 16 trở ra. Tướng Đờ Gôn thì tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm năm "nước tự trị": ngoài Lào, Campuchia còn có ba "nước" Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, tất cả đặt dưới sự lãnh đạo của quan toàn quyền Pháp! Như vậy các lực lượng thù địch đang lăm le tái chiếm nước ta, ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau lưng quân đội Anh (thay mặt đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, ở miền Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, tay sai của đế quốc Mỹ, đã chực sẵn ở biên giới; mâu thuẫn giữa Anh - Pháp - Mỹ và Liên Xô có thể làm cho Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương. Trong khi đó, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai này, thực dân Pháp đã tung ra những lý lẽ trong dư luận Thế giới rằng: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên sau khi phát xít Nhật bị quân đồng minh đánh bại. Tình hình trong nước: Để chống lại âm mưu đế quốc, bảo vệ chủ quyền độc lập của mình, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh (do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo) nhân dân ta tranh thủ thời cơ Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Nhật ngày 15/8/1945, đã đứng lên khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19/8, ở Huế ngày 23/8 và ở Nam Bộ ngày 25/8. Chỉ trong vòng một tuần lễ, nhân dân cả nước đã giành được chính quyền. Ngày 26/8/1945, Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Bác đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân và Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trước khi quân Anh và quân Tưởng tràn vào Việt Nam. Nếu không đặt “Tuyên ngôn độc lập” trong hoàn cảnh ra đời gắn liền với những sự kiện lịch sử như trên, học sinh sẽ không thấy hết được giá trị và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn. Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, nên bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ khẳng định chủ quyền của Việt Nam mà còn có vai trò đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt Nam của Thực dân Pháp và âm mưu can thiệp vào Việt Nam của các đế quốc khác, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế. "Tuyên ngôn độc lập" đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam, kết thúc 80 năm nhân dân ta phải chịu đau khổ, lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp, 5 năm bị phát xít Nhật đô hộ và hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến. b. Tích hợp kiến thức lịch sử trong phần Đọc - hiểu văn bản Bản "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh chia làm 3 phần: Phần đặt vấn đề (cơ sở pháp lí của bản Tuyên ngôn), phần giải quyết vấn đề (cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn), phần kết thúc vấn đề (Lời tuyên bố độc lập và quyết tâm bảo vệ độc lập). Khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần hai: cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn (Nội dung phần này thực hiện trong 15 phút của tiết học), giáo viên có thể tích hợp kiến thức lịch sử bằng phương pháp thuyết trình, bình luận xen kẽ vào các ý chính, để làm rõ: ở phần này “Tuyên ngôn độc lập” chẳng khác nào một bản cáo trạng đanh thép nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp với hai tội trạng: "Tội xâm lược Việt Nam gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam và tội bán Việt Nam cho Nhật”. Trước hết là tội xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp bắt đầu đặt chân xâm lược nước ta từ 1858 với sự kiện nổ súng ở cảng Đà Nẵng. Sau khi bình định được nước ta, chúng tập trung khai thác tài nguyên, thiên nhiên, vật liệu để làm giàu cho chính quốc. Để vạch trần tội ác này, Hồ Chí Minh đã tập trung tố cáo trên nhiều phương diện. Trước hết là phương diện chính trị. Thực dân Pháp dùng chính sách “chia để trị”. Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Ngoài ra chúng còn triệt để thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt", chúng vẫn duy trì và tăng cường bộ máy quan lại thuộc giai cấp địa chủ phong kiến từ cấp phủ, quận, tổng, đến làng xã và biến giai cấp này thành tay sai đắc lực trong việc vơ vét bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách độc quyền về kinh tế. Cụ thể, trong nông nghiệp chúng chiếm đoạt hàng loạt ruộng đất của nhân dân ta để lập đồn điền trồng cây công nghiệp, lúa, nhiều nhất là cao su. Tính đến năm 1930, diện tích ruộng đất bị thực dân Pháp chiếm đoạt lên đến 1,2 triệu ha. Trong công nghiệp, chúng độc quyền khai thác các mỏ khoáng sản dồi dào như than đá, mỏ thiếc, kẽm, vàng Giai cấp tư sản Việt Nam bị chèn ép, kìm hãm, không thể tự do phát triển được. Trong lĩnh vực thương nghiệp, chúng thiết lập một hàng rào thuế quan nghiêm ngặt, không cho hàng của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài cũng như hàng của nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam nhằm độc quyền chiếm giữ thị trường. Chúng đặt ra những thứ thuế dã man, vô lí làm cho mọi giai tầng của ta không thể ngóc đầu lên được. Về văn hoá - xã hội, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân, tức là làm cho dân ngu để dễ bề cai trị, chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng còn đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện để dân ta bị suy kiệt về nòi giống Chính sách xâm lược của thực dân Pháp kết hợp với phát xít Nhật từ mùa thu năm 1940 đã dẫn đến hậu quả cuối năm 1944 - đầu năm 1945, hơn 2 triệu đồng bào Việt Nam bị chết đói từ Quảng Trị trở ra Bắc Kì. Với cách tố cáo này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực dân Pháp không phải là kẻ bảo hộ nước ta, đến khai hoá văn minh cho nước Việt Nam ta như luận điệu chúng đang lừa bịp công luận quốc tế. Tội ác thứ hai của kẻ thù là tội dã tâm bán Việt Nam cho phát xít Nhật. Lịch sử nêu rõ: mùa thu năm 1940, phát xít Nhật tràn qua biên giới Việt – Trung vào Việt Nam để mở rộng căn cứ đánh Đồng minh. Vì quá bất ngờ nên thực dân Pháp đã mở cửa nước ta rước Nhật. Bắt đầu từ đây nhân dân Việt Nam chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Đã nhiều lần Việt Minh kêu gọi thực dân Pháp đứng về phía Việt Minh để chống Nhật. Thực dân Pháp chẳng những không nghe mà còn tiếp tục chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Trong vòng 5 năm trời (từ mùa thu năm 1940 đến 19 tháng 3 năm 1945) thực dân Pháp đã hai lần nhục nhã bán Việt Nam cho Nhật. Điều này chứng tỏ rằng thực dân Pháp không hề đứng về phía Đồng minh chống Nhật mà là kẻ đầu hàng phát xít Nhật một cách nhục nhã. Các kiến thức lịch sử trên được giáo viên bình luận, thuyết trình xen kẽ vào các ý chính, mỗi phần bình luận chỉ sử dụng tối đa là 2 đến 3 phút. Cách tích hợp trên giúp học sinh hình dung rõ ràng về hoàn cảnh lịch sử trong nước cũng như thế giới khi bản "Tuyên ngôn độc lập" ra đời, từ đó giúp các em cảm nhận sâu sắc mục đích, giá trị và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn cũng như cách lập luận đanh thép, thuyết phục của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 3.2.2. Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy bài "Việt Bắc" của Tố Hữu Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Khi dạy đoạn trích "Việt Bắc" (Chương trình Ngữ văn 12 tập một), phần "Tìm hiểu chung", mục tìm hiểu tác phẩm, giáo viên có thể dùng phương pháp phát vấn trong thời gian 2 phút, yêu cầu học sinh trình bày vài nét về tập thơ "Việt Bắc" và hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên nhấn mạnh: "Việt Bắc" là tập hùng ca của kháng chiến toàn dân tám năm ròng rã chống thực dân Pháp, tập thơ phản ánh đầy đủ con đường chiến đấu gian lao và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn, hình ảnh về cuộc kháng chiến. Như vậy, nội dung của tập thơ cũng như của bài thơ "Việt Bắc" sẽ gắn liền với những sự kiện lịch sử, khi dạy đoạn trích trong bài thơ giáo viên cần khéo léo lựa chọn những phần thích hợp để tích hợp kiến thức, nhằm làm sáng tỏ tính chất trữ tình - chính trị trong thơ Tố Hữu. Ví dụ, trước khi nói về hoàn cảnh sáng tác của bài thơ "Việt Bắc", giáo viên dành 1 phút để giới thiệu: Việt Bắc là quê hương cách mạng, nơi có hang Pắc Bó mà Nguyễn Ái Quốc sau bao nhiêu năm tìm đường cứu nước đã đặt chân đầu tiên khi về với Tổ quốc (tháng 2 năm 1941), nơi Trung ương Đảng và Bác Hồ đã thành lập Mặt trận Việt Minh chuẩn bị tổng khởi nghĩa dẫn đến Cách mạng Tháng 8 thành công. Nơi đội tuyên truyền giải phóng quân ra đời (Quân đội nhân dân Việt Nam), nơi có 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh đọc mục "Tiểu dẫn" trong sách giáo khoa, trình bày tóm tắt hoàn cảnh ra đời của bài thơ "Việt Bắc". Sau khi học sinh trình bày, giáo viên dành tối đa 2 phút để giải thích thêm: Bài thơ "Việt Bắc" ra đời có liên quan đến một sự kiện lịch sử: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu - cuộc chiến đấu kéo dài 56 ngày đêm “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt”, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 75 ngày sau Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết. Như vậy, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của quân và dân ta. Đến tháng 10 năm 1954 các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ chuyển về Hà Nội, cán bộ kháng chiến về xuôi. Sự lưu luyến bịn rịn đầy ân tình giữa cảnh và người Việt Bắc đối với người cán bộ về xuôi trong giờ chia tay là cảm xúc trực tiếp giúp nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài thơ này. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình. Ngoài ra, trong phần "Đọc - hiểu văn bản", khi phân tích các đoạn thơ, giáo viên có thể tích hợp kiến thức lịch sử khi bình giảng một số câu thơ trong bài thơ như: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Phân tích câu thơ "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng", giáo viên sử dụng phương pháp phát vấn, yêu cầu học sinh nêu hiểu biết "Mười lăm năm" là thời gian nào? Có ý nghĩa gì? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên bình giảng tích hợp kiến thức lịch sử: “Mười lăm năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời dân ta kháng Nhật. Căn cứ địa Việt Bắc được thành lập vào năm 1941, sau 30 năm tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, Người dừng chân ở Pắc Bó, cùng Trung ương thành lập căn cứ địa Việt Bắc để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Tiếp theo là phong trào Việt Minh (liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập vào ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích là liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp). Đồng thời “mười lăm năm” cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Hay khi phân tích hai câu thơ: Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa Giáo viên dùng phương pháp phát vấn để học sinh trình bày hiểu biết về các địa danh lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái Tuy nhiên do trình độ và hiểu biết của học sinh còn hạn chế nên sau khi học sinh trả lời, giáo viên tích hợp kiến thức lịch sử để giới thiệu thêm: Những địa danh lịch sử ở mảnh đất Tân Trào đã đi vào thơ ca và in đậm trong những trang sử vàng của dân tộc. Khu di tích lịch sử Tân Trào là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan trung ương ở và làm việc trong những ngày tiền khởi nghĩa và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nằm trên địa bàn các xã của hai huyện Sơn Dương và Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Mùa Thu năm 1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang chỉ đạo phong trào cách mạng. Người đã chọn xã Tân Trào làm thủ đô khu giải phóng, căn cứ địa cách mạng. Khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, một lần nữa Tân Trào lại được Trung ương Đảng và Chính phủ chọn làm căn cứ địa cách mạng của cả nước. Tân Trào là nơi làm việc của các bộ, ngành trung ương để lãnh đạo toàn dân kháng chiến, kiến quốc suốt 9 năm chống thực dân Pháp Việc tích hợp trên chỉ lồng ghép nhanh gọn bằng phương pháp bình giảng sau khi phân tích các câu thơ, thời gian cho mỗi lời bình không quá 2 phút. 3.2.3. Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân "Vợ nhặt" là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp vào mùa xuân năm Ất Dậu 1945 - nạn đói đã cướp mất một phần mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Truyện ngắn "Vợ nhặt" được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 12 tập hai. Ở phần "Tìm hiểu chung", khi hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm, để hiểu rõ bối cảnh lịch sử được tái hiện trong truyện, giáo viên dùng phương pháp phát vấn (trong thời gian 2 phút), yêu cầu học sinh trình bày những hiểu biết về hiện thực xã hội nước ta năm 1945. Từ những hiểu biết về kiến thức lịch sử, các em sẽ bước đầu xác định được giá trị hiện thực của truyện ngắn. Thực tế, qua bộ môn Lịch sử học sinh đã có những hiểu biết nhất định về hiện thực xã hội nước ta năm 1945, hơn nữa các em đã hiểu khá rõ về xã hội nước ta trước Cách mạng tháng Tám qua tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh: "Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật " cho nên ở phần này giáo viên có thể dễ dàng liên hệ, tích hợp kiến thức lịch sử để làm rõ nguyên nhân dẫn đến nạn đói thảm khốc năm Ất Dậu ở nước ta. Tiếp theo ở phần tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, giáo viên dùng phương pháp phát vấn, yêu cầu học sinh đọc "Tiểu dẫn" trong sách giáo khoa và nêu hoàn cảnh ra đời tác phẩm. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên dùng phương pháp thuyết trình, trong thời gian 1 phút, nhấn mạnh thêm về thời điểm nhà văn Kim Lân viết tác phẩm: Truyện ngắn "Vợ nhặt" được nhà văn viết lại dựa vào một phần cốt truyện của tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" đang viết dở dang và bị mất bản thảo. Như vậy truyện không được viết ngay tại thời điểm nạn đói năm 1945 đang diễn ra, mà được viết vào năm 1954 sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi. Vì vậy khác với các tác phẩm ra đời trước Cách mạng tháng Tám (như "Chí Phèo", "Lão Hạc" của Nam Cao, "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố ), "Vợ nhặt" của Kim Lân tái hiện hiện thực xã hội với những tín hiệu lạc quan như: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu, người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy", "Việt Minh phải không?" hay qua hình ảnh "lá cờ đỏ bay phấp phới" hiện lên ở đoạn văn cuối tác phẩm. 3.2.4. Tích hợp kiến thức lịch sử khi dạy tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành là bản anh hùng ca của thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam 1954 - 1975. Tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 12 tập hai. Ở phần "Tìm hiểu chung", khi hướng dẫn tìm hiểu khái quát về tác phẩm, giáo viên có thể tích hợp kiến thức lịch sử bằng phương pháp phát vấn, thuyết trình Vì bối cảnh của truyện là cuộc sống, chiến đấu của đồng bào người dân tộc Strá ở ngôi làng Xô-man xa xôi hẻo lánh của núi rừng Tây Nguyên, trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Nên trước khi "Đọc - hiểu văn bản", giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ bối cảnh này.
Tài liệu đính kèm: