II. Đặt vấn đề:
“Mỗi chữ viết là bông hoa đẹp
Mỗi trang vở là một vườn hoa xinh”
Viết chữ đẹp là mong muốn của tất cả cán bộ, giáo viên, học sinh và
của cả phụ huynh học sinh nữa. Chữ viết cũng là một môn học, là kiến thức,
nhất là ở Tiểu học, bởi vì: “Nét chữ- nết người”, dạy chữ là dạy người. Chữ
viết sẽ góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Ta dạy cho các em
viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn
thận, thận trọng trong công việc, lòng tự tin của bản thân.
Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Tiểu học là
bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết chữ Việt là chúng ta đã trao cho
các em chìa khóa để mở ra cánh cửa để bước vào tương lai. Chữ viết là công cụ
dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận
những tri thức văn hóa khoa học và đời sống.Do vậy, ở trường tiểu học, việc
dạy học sinh viết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ
cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt.
Đồng thời chữ viết chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác.
Mục tiêu của chúng ta là giúp cho trẻ “ Đọc thông - Viết thạo”. Trẻ đọc thông
viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Chính vì vậy, việc giữ
vở, rèn chữ cho học sinh Tiểu học có một tầm quan trọng rất lớn.
Hơn nữa, nhìn những trang vở của các em học sinh với những dòng
chữ đều tăm tắp, vở sạch đẹp thì cha mẹ và thầy cô đều vui và chính các em
cũng thấy thích thú - là động lực giúp các em ham thích học tập.
Thật vậy, hiện nay “Giữ vở- rèn chữ” là một vấn đề đáng quan tâm
trong nhà trường, bản thân là một cán bộ quản lý của trường, tôi luôn lo lắng,
trăn trở, làm thế nào để học sinh của trường mình hưởng ứng tốt phong trào “
Giữ vở- rèn chữ” để viết chữ ngay ngắn hơn, đẹp hơn, trình bày đẹp và giữ vở
sạch sẽ hơn. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “ Giữ vở- rèn chữ ” để nghiên cứu,
và đưa ra một vài biện pháp chỉ đạo để thực hiện tốt phong trào này trong
nhà trường .
Rèn kỹ năng viết chữ cho học sinh”(Có phụ lục đính kèm), tổ chức các tiết thao giảng, hội thảo về phương pháp dạy và học phân môn Tập viết, Chính tả để giáo viên có điều kiện trao đổi tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ học sinh viết đúng, viết đẹp. Để làm gương cho học sinh, ngoài việc yêu cầu giáo viên phải viết đúng, viết đẹp bất kì mọi lúc, mọi nơi; chúng tôi đã chỉ đạo thống nhất cách trình bày bảng của giáo viên ở từng phân môn và thể loại bài dạy. Cách trình bày ở bảng của giáo viên cũng là cách trình bày ở vở của học sinh. Đây là vấn đề có tính quyết định, là nền tảng vững chắc cho việc thực hiện phong trào vở sạch chữ đẹp của nhà trường. Việc ghi và trình bày bảng lớp luôn đòi hỏi những yêu cầu về tính khoa học (nội dung chính xác), tính sư phạm (có tác dụng giảng dạy và giáo dục) và tính thẩm mĩ (viết chữ và trình bày đẹp). Muốn thực hiện tốt những yêu cầu trên, người giáo viên cần thường xuyên có ý thức luyện tập, rút kinh nghiệm trong viết chữ và trình bày bảng sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Mục đích quan trọng của việc dạy viết là học sinh viết đúng mẫu chữ quy định, có kĩ năng viết nhanh, viết đẹp và biết trình bày một bài viết sạch sẽ. Do vậy, trong quá trình tổ chức bồi dưỡng giáo viên chúng tôi đã chú trọng bồi dưỡng cho giáo viên nắm chắc các yêu cầu sau: 5 - Tên gọi các loại nét cơ bản trong khi hướng dẫn học sinh: nét thẳng (thẳng đứng, thẳng ngang, thẳng xiên); nét cong (cong kín, cong hở, cong phải, cong trái); nét móc (móc xuôi trái, móc ngược phải, móc hai đầu); nét khuyết (khuyết xuôi, khuyết ngược) và nét hất. Biện pháp thực hiện chủ yếu là luyện viết từ dễ đến khó theo từng nhóm chữ. Người giáo viên phải nắm chắc các nhóm chữ viết để rèn luyện dứt điểm, đúng trọng tâm. Cụ thể như sau: * Đối với chữ viết chữ thường có thể chia thành các nhóm sau: + Nhóm có nét móc : n, m, i, u, ư, v, r, t. + Nhóm có nét khuyết : l, b, h, k, g, y. + Nhóm có nét cong và có dấu mũ : a, ă, â, o, ô, ơ, e, ê ... + Nhóm các chữ ghép : nh, kh, ch, ngh, ng, ph. * Các nhóm chữ viết hoa cũng tương tự theo cấu tạo nét giống nhau với mức độ từ dễ đến khó, giáo viên phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. Ví dụ: + Khi dạy nhóm chữ: A, Ă, Â, N, M. Nhóm chữ viết hoa này chủ yếu tạo bởi nét cong và sự phối hợp hay biến điệu của những nét cong. Vì vậy khi dạy cần luyện kĩ cách điều khiển đầu bút để tạo nét cong cho đúng mẫu... * Đối với chữ số: Việc luyện viết chữ số có phần thuận lợi hơn chữ viết vì cấu tạo của các số chỉ gồm các nét thẳng và nét cong là chủ yếu. Giáo viên có thể tiến hành lần lượt các chữ số kiểu 1, kiểu 2 theo mẫu, hoặc luyện viết trước các chữ số ở nhóm có nhiều nét thẳng, sau đó đến nét cong. Đặc biệt cần tập trung kiểm soát và tăng cường việc bồi dưỡng cho giáo viên cách chấm chữa bài trong vở Tập viết và Chính tả. Việc chấm chữa bài cho học sinh trong vở Tập viết, Chính tả thường phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo quy trình, chương trình của từng khối lớp, giáo viên bắt kỹ lỗi các nét cơ bản ở bài tập viết. Ở bài chính tả, ngoài việc bắt lỗi như trên, giáo viên phải kiểm tra chặt chẽ hơn qui trình nối nét, cách đánh dấu thanh, các dấu phụ. - Giáo viên nắm chắc kĩ thuật viết chữ đó là kĩ thuật “ lia bút “ và “ kĩ thuật “ rê bút” để hướng dẫn học sinh có thói quen viết liền mạch . - Vị trí dấu ghi thanh cũng được quy định một cách cụ thể: + Thanh huyền và Thanh sắc không được viết thẳng đứng hoặc nằm ngang mà viết hơi chếch sang phải (dấu huyền ), chếch sang trái (dấu sắc). + Thanh hỏi và thanh ngã thì viết trên âm chính, thanh nặng đặt dưới âm chính. + Những trường hợp các chữ ghi tiếng mà âm chính có dấu phụ thì phải 6 ghi dấu thanh chếch về bên phải ; những tiếng có nguyên âm đôi không có âm cuối thì dấu thanh ghi vào âm chính thứ nhất; những tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối thì dấu ghi thanh ghi vào âm chính thứ hai. * Dự kiến những lỗi học sinh thường mắc để giáo viên rút kinh nghiệm. Trong thực tế chúng tôi thấy học sinh thường mắc một số lỗi cơ bản sau: - Sai về thế chữ: chữ ngửa về bên trái (HS lớp 1,2,3) ; chữ quá nghiêng về bên phải (HS lớp 4,5) hoặc không thống nhất một thế chữ lúc nghiêng, lúc thẳng. Đối với loại lỗi này, GVcần hướng dẫn HS khi viết phải dựa vào đường kẻ dọc (chữ đứng ), hơi chếch phải 150 (chữ nghiêng) và thống nhất một thế chữ trong một bài viết - Sai về hình dáng, kích thước và khoảng cách giữa các con chữ, khoảng cách giữa các nét chữ: các nét khuyết bị gãy (đặc biệt là nét khuyết trên); độ cao, độ rộng các con chữ mất cân đối; khoảng cách nét và khoảng cách các con chữ bị dính hoặc bị rộng.(nh, kh, ph, ch). - Xác định sai điểm bắt đầu và kết thúc của các con chữ (m,n, h,p). - Sai vị trí dấu ghi thanh hoặc viết dấu ghi thanh quá nhỏ. Qua việc chấm bài, giáo viên giúp học sinh tự nhận thức được những ưu điểm để phát huy, thấy rõ những thiếu sót để khắc phục, sửa chữa; kịp thời động viên những cố gắng nỗ lực của từng học sinh khi viết chữ. Bên cạnh việc chấm (bắt lỗi quy trình, nối nét, cách đánh dấu thanh, dấu phụ) giáo viên cần chú ý kết hợp chữa lỗi và đồng thời ghi lời nhận xét (ngắn gọn) để thể hiện sự biểu dương hay góp ý, yêu cầu về chữ viết đối với học sinh. Đây là một trong những yêu cầu nghiêm ngặt của nhà trường buộc giáo viên phải thực hiện. 2. Đối với học sinh: Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục đạo đức, nâng cao ý thức rèn chữ viết cho học sinh, thông qua công tác chủ nhiệm lớp, các hoạt động của Đội và Sao nhi đồng Bồi dưỡng cho các em tính kiên trì, chịu khó trong học tập cũng như việc luyện chữ viết. Thường xuyên chăm lo rèn luyện cho các em nền nếp viết chữ rõ ràng và sạch đẹp. Muốn vậy, giáo viên cần thường xuyên quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở các em một số mặt chủ yếu dưới đây: - Chuẩn bị và sử dụng hợp lí các đồ dùng học tập như: bảng con, phấn trắng, khăn lau, vở Tập viết, bút chì, bút mực, . - Thực hiện đúng quy định khi viết chữ từ tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở, xê dịch vở khi viết, cho đến cách trình bày bài. Trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên, các em thường xuyên rèn luyện tư thế của mình khi viết. Ngồi viết phải ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực 7 vào mép bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở 25 - 30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cùng ở trên mặt bàn... Khi viết, các em phải cầm bút và điều khiển bút viết bằng ba ngón tay (Ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái. Phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. .. Khi viết đặt vở nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 0 nghiêng về bên phải. Biện pháp 4: Làm tốt công tác chỉ đạo của Ban giám hiệu 1. Đối với Ban giám hiệu Ngay từ đầu năm học nhà trường phát động phòng trào “Giữ vở rèn chữ” và chỉ đạo cho các tổ thực hiện. - Thành lập Ban chỉ đạo theo dõi phong trào. - Tổ chức chuyên đề “Giữ vở- Rèn chữ” trong GV. - Có kế hoạch kiểm tra từng tháng, kỳ về việc chấm bài - vở học sinh ở các lớp. - Dự giờ các tiếp Tập viết và Luyện chữ viết để giúp đỡ giáo viên nâng cao tay nghề và có thêm một số kinh nghiệm để giảng dạy tốt hơn. - Tổ chức bồi dưỡng chữ viết cho học sinh một tháng 02 lần. - Có kế hoạch khen thưởng, động viên giáo viên và học sinh các lớp có phong trào giữ vở, rèn chữ đạt kết quả. - Phân công giáo viên có nhiều kinh nghiệm về rèn chữ giữ vở chịu trách nhiệm về phong trào chung cho từng khối. Người chịu trách nhiệm về phong trào có nhiệm vụ hỗ trợ khối trưởng trong việc kiểm tra việc rèn chữ giữ vở và định hướng, tư vấn giáo viên hướng khắc phục . - Bên cạnh đó, phân công giáo viên có nhiều kinh nghiệm trực tiếp hướng dẫn giáo viên chưa có kinh nghiệm, ít kinh nghiệm. * Ngoài việc tổ chức hội thảo trong sinh hoạt chuyên môn; tôi còn tiến hành tổ chức cho giáo viên có nhiều kinh nghiệm thực hiện việc rèn chữ cho lớp mình (hoặc đến rèn lớp đồng nghiệp nếu giáo viên có yêu cầu) để giáo viên trong khối cùng tham dự. * Thông qua các buổi họp chuyên môn tôi cũng định hướng cho giáo viên tiến hành khâu rèn chữ cho học sinh qua nhiều hình thức và rèn mọi lúc mọi nơi. Trong công tác giảng dạy – Rèn chữ: Thực tế chúng ta không có tiết học dành cho việc rèn chữ. Vì vậy công tác rèn chữ giữ vở được thực hiện ngay trong quá trình giảng dạy hoặc ở buổi học thứ hai. Trong quá trình rèn chữ, tôi vận động giáo viên vận dụng một cách linh hoạt các SKKN về rèn 8 chữ giữ vở đã triển khai kết hợp với kinh nghiệm của bản thân mà mình tích lũy được. Bên cạnh đó, tôi thường xuyên nhắc nhở giáo viên thực hiện việc rèn chữ viết cho HS mọi lúc mọi nơi: VD cụ thể: + Thời gian học sinh viết bài là lúc mà giáo viên phải theo sát các em, theo dõi và uốn nắn các em từng nét chữ, từng con số. Công việc này nếu được giáo viên tiến hành thường xuyên thì ta sẽ tạo cho học sinh thói quen và ý thức rèn chữ. + Lúc học sinh làm bảng con hay trình bày bảng lớp cũng là lúc giáo viên động viên khuyến khích học sinh, sửa chữa và uốn nắn từng nét chữ, từng con số cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy, việc giáo viên chấm chữa bài và ghi lời nhận xét cho HS; viết bảng lớp thì nhất thiết giáo viên phải viết đúng vì chữ viết của giáo viên là chữ mẫu giúp HS quan sát và tự điều chỉnh chữ viết của bản thân (nhất là mẫu chữ sáng tạo). Cùng với việc thành lập các câu lạc bộ như: Câu lạc bộ trống đội, câu lạc bộ múa hát tập thể... tôi thành lập câu lạc bộ học sinh viết chữ đẹp. Thành phần câu lạc bộ là học sinh đạt giải trong các kì thi cấp khối. câu lạc bộ HS viết chữ đẹp sẽ do giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong khối đảm nhiệm việc rèn và chọn một bạn làm nhóm trưởng. Việc thành lập câu lạc bộ có nhiều lợi ích cho phong trào rèn chữ giữ vở của khối . Cụ thể như sau: + Các em trong câu lạc bộ hàng tuần được giáo viên có nhiều kinh nghiệm rèn tập trung và thi đua lẫn nhau. Các em được tuyên dương trước cờ, bài viết được treo trên bản tin. Đó là niềm vinh dự và là động lực cho các em trong đội tuyển tích cực hơn trong việc rèn chữ. Đồng thời qua đó sẽ lôi kéo và kích thích nhiều học sinh khác cùng tích cực tham gia rèn chữ viết. + Các em trong câu lạc bộ còn là lực lượng tích cực hỗ trợ cho giáo viên của mình trong công tác rèn chữ, bởi vì đây là lực lượng được giáo viên có nhiều kinh nghiệm rèn và khi về lớp GVCN sẽ tìm hiểu cách rèn để bổ sung kinh nghiệm và áp dụng rèn cho cả lớp. 2. Chỉ đạo tổ chuyên môn: Hưởng ứng phong trào thi đua của trường, tổ chuyên môn tiếp thu ý kiến chỉ đạo, ngay buổi họp tổ đầu năm, tổ trưởng chuyên môn đưa ra và thống nhất một số quy định, yêu cầu cho tổ: - Quy định về số lượng vở cho học sinh. - Thống nhất quy trình dạy, rèn chữ viết cho học sinh qua từng tiết học, môn học. - Thống nhất cách trình bày vở học sinh. - Phát động thi đua học sinh viết chữ đẹp trong tổ qua các ngày lễ lớn trong năm. 3. Chỉ đạo giáo viên 9 - Rèn chữ viết HS Tiểu học có thói quen bắt chước,vì vậy chữ viết của GV ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng chữ viết của HS. Việc rèn chữ của giáo viên đã được quy định cụ thể thông qua các công việc sau: - Bài soạn và các hồ sơ quy định phải viết thống nhất một màu mực, thống nhất cách trình bày ,thống nhất một loại vở, trình bày khoa học, chữ viết mẫu mực . - Chữ viết bảng đúng mẫu, trình bày khoa học, cân đối, không viết bảng một cách tuỳ tiện . - Rèn viết chữ trên vở ô li và vở tập viết thường xuyên . - 100% giáo viên tham gia dự thi “ Viết chữ đẹp” và sử dụng kết quả đó là một trong những tiêu chí đánh giá kết quả nghiệp vụ hàng năm . - Lời nhận xét của giáo viên trong vở học sinh phải mẫu mực, chân phương, rõ ràng; chấm, chữa bài tỉ mỉ, kịp thời. - Ngoài ra, mỗi giáo viên cần nắm rõ chất lượng chữ viết của học sinh lớp mình, có kế hoạch cụ thể để kèm cặp những học sinh viết ẩu như: xếp chỗ ngồi thuận tiện, xếp ngồi cạnh những em viết chữ đẹp, photo những bài viết mẫu để học sinh tập tô trên mẫu và bắt chước mẫu ; lựa chọn và giới thiệu cho học sinh mua những loại bút xuống mực đều, dễ viết tạo nét thanh, nét đậm. Với mục đích, nhiệm vụ quan trọng như đã nêu ở trên, nên việc tổ chức dạy học tốt phân môn Tập viết được đặt lên hàng đầu đối với mỗi giáo viên. Trước hết để giúp giáo viên tổ chức dạy học tốt phân môn Tập viết, nhà trường đã đi sâu triển khai chuyên đề “Đổi mới Phương pháp dạy học Tập viết”. Qua chuyên đề đã củng cố cho giáo viên về các biện pháp dạy học chủ yếu trong giờ Tập viết. Đó là phải có các biện pháp kĩ thuật phù hợp để hướng dẫn cho học sinh viết chữ cái, chữ, câu đoạn, bài; cách viết liền mạch, cách đặt dấu thanh; Chấm chữa bài tập viết cho các em một cách cụ thể, giúp các em tự rút ra được ưu, nhược của mình để tự khắc phục. Ngoài ra, nhà trường đã đồng thời thực hiện nhiều biện pháp tích cực tác động hỗ trợ cho giáo viên như xây dựng môi trường học tập giáo dục phù hợp với từng khối lớp đặc biệt là lớp 1-2-3; tăng cường thiết bị dạy học; tạo điều kiện cho đội ngũ của mình học tập chuyên môn nghiệp vụ; tăng cường kiểm tra đánh giá chất lượng dạy học và giáo dục ... của đội ngũ. 4. Yêu cầu học sinh Học sinh phải: - Kiên trì bền bỉ khắc phục khó khăn. - Rèn viết ở lớp. - Rèn viết ở nhà. 10 - Có ý thức tốt trong việc giữ vở sạch sẽ, không quăn góc và luôn bao bọc sách vở cẩn thận. Biện pháp 5: Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất Rèn kĩ năng viết cho học sinh là một quá trình lâu dài, phức tạp và đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của cả giáo viên và học sinh. Đặc biệt là kĩ năng viết chữ đẹp. Đây là một kĩ năng không phải tự nhiên mà có, đòi hỏi sự chăm lo rèn luyện thường xuyên cho các em, phải dạy cho các em một cách có định hướng và có kế hoạch. Ngoài những biện pháp nói trên, học sinh còn cần có những điều kiện thuận lợi khác hỗ trợ. Đó là: Đối với nhà trường: Phòng học có đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học theo quy định của vệ sinh học đường. Để đảm bảo đủ ánh sáng trong mùa đông, chúng tôi đã bắt 6 bóng đèn / phòng học. Bàn ghế đúng quy cách, vừa tầm với học sinh, mỗi bàn chỉ có hai chỗ ngồi. Bảng lớp đạt tiêu chuẩn chống loá, treo ở độ cao vừa phải, cạnh dưới của bảng ngang tầm đầu của học sinh ngồi trong lớp. Trang bị cho mỗi lớp một tủ đựng sách vở, học cụ dùng chung. Đối với giáo viên: Có bảng mẫu chữ viết theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có bộ chữ mẫu để giáo viên minh hoạ. Đối với học sinh: Đồ dùng học tập phải đầy đủ như giấy, vở, bút, bảng con, phấn, thước... đạt tiêu chuẩn quy định. Thống nhất sử dụng một loại mực (mực xanh); một loại bút viết (bút viết nét hoa), một loại vở có chất lượng cao, không bị nhoè khi viết. Mỗi học sinh có một bảng chữ mẫu để tô được lồng trong giấy bóng theo quy định cụ thể cho từng khối lớp. Biện pháp 6: Tiến hành tốt phong trào thi đua và tổ chức hội thi viết chữ đẹp trong nhà trường: Kinh nghiệm cho thấy, nếu chỉ dạy chữ qua các giờ học chính khoá thì mới chỉ dừng lại ở mức độ rèn học sinh viết đúng. Muốn học sinh có chữ viết đẹp, giáo viên cần phải sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp để tổ chức cho học sinh tự rèn luyện chữ viết của mình. Đồng thời phải xây dựng được phong trào thi đua Viết chữ đẹp trong toàn trường. Chính vì thế nên đầu năm học nhà trường phối kết hợp với Liên đội tổ chức phát động phong trào thi đua " Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" trong toàn trường. Phong trào được duy trì trong suốt năm học. Tổ chức kiểm tra theo các đợt kiểm tra định kì và đột xuất: - Kiểm tra hồ sơ giáo viên định kì 3 lần / học kì: việc kiểm tra không chỉ chú trọng đến nội dung ghi trong hồ sơ mà chúng tôi còn đánh giá cả về chất lượng chữ viết, cách trình bày và cả lỗi chính tả. Lời phê ghi trong hồ sơ bao giờ cũng nhận xét về nội dung và cách trình bày, chữ viết, nếu nội dung tốt nhưng chữ viết chưa đẹp và trình bày không khoa học thì hồ sơ cũng không thể xếp loại tốt. 11 - Kiểm tra vở học sinh định kì 3 lần / học kì: Kiểm tra từng học sinh có nhận xét cụ thể , đặc biệt chỉ rõ những khuyết điểm mà học sinh mắc phải về chữ viết và cách trình bày. Thông báo và yêu cầu giáo viên kí nhận kết quả của lớp mình sau mỗi đợt kiểm tra, ghi chép lại những điều mà chuyên môn đã chỉ ra để kịp thời uốn nắn học sinh của mình . Ban giám hiệu nhà trường kiểm tra thường xuyên bằng nhiều hình thức: nghe báo cáo, kiểm tra đột xuất bài viết; kiểm tra chữ viết thông qua kiểm tra vở Tập viết, Chính tả, Luyện viết chữ đẹp của giáo viên và học sinh để nắm bắt chính xác những thông tin, kịp thời tuyên dương những em có chữ viết đẹp, có sự tiến bộ trong các giờ chào cờ đầu tuần để động viên phong trào. Tổ chức đánh giá phong trào "Vở sạch- chữ đẹp" theo từng đợt, từng học kì và cả năm học một cách nghiêm túc, chặt chẽ. Trong đó, tiêu chí đánh giá về chất lượng chữ viết được đặt lên hàng đầu. Hàng tuần, hàng tháng thông qua các buổi chào cờ, sinh hoạt tập thể, hội họp có những nhận xét đánh giá cụ thể về phong trào luyện viết chữ trong giáo viên, học sinh. Chọn những học sinh có chữ viết đẹp, mỗi tuần có một bài viết để nhà trường nhân bản gửi về các lớp để các em có điều kiện tham khảo, học tập chữ viết của bạn. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thực hiện nghiêm túc công tác chấm chữa. Đặc biệt là Tập viết, Chính tả và Tập làm văn. Sau đó ghi kết quả của từng học sinh ở mỗi tuần vào sổ theo dõi chấm chữa và có công bố rõ ràng cho học sinh để các em kịp thời sửa chữa, khắc phục sai sót đồng thời động viên, khích lệ tính thi đua của trẻ. Tổ chức thi “ Giữ vở- rèn chữ” trong giáo viên và học sinh. Mục đích để kiểm tra mức độ thực hiện phong trào của tập thể và cá nhân học sinh cũng như giáo viên trong nhà trường, đồng thời khen thưởng những tập thể và cá nhân thực hiện tốt việc rèn chữ, giữ vở, bên cạnh đó kịp thời động viên, khích lệ tinh thần của giáo viên và học sinh tiếp tục tham gia tốt phong trào Trên cơ sở kết quả của cuộc thi, chọn những giáo viên, học sinh đạt giải cao tham gia thi cấp thành phố. Kết thúc năm học, giáo viên, tổ chuyên môn và nhà trường tổ chức rút kinh nghiệm, chọn những bài tập viết đẹp lưu giữ lại phòng truyền thống của nhà trường để làm tư liệu nhân rộng phong trào cho những năm tiếp theo. VI. Kết quả nghiên cứu: - 100% giáo viên và học sinh tham gia tốt phong trào “Giữ vở- rèn chữ”. - Việc chỉ đạo phong trào của ban giám hiệu diễn ra thường xuyên và đạt kết quả. - Các tổ chuyên môn làm tốt công tác chỉ đạo cũng như việc theo dõi 12 quá trình thực hiện của từng thành viên trong tổ. - Giáo viên phụ trách lớp làm tốt công tác rèn chữ cho học sinh và theo dõi, xếp loại giữ vở- rèn chữ hằng tháng. - Qua khảo sát học sinh, (cuối tháng 3) kết quả như sau: XẾP LOẠI GIỮ VỞ XẾP LOẠI RÈN CHỮ A B C A B C K H Ố I số l ư ợ n g SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % MỘT 132 95 72.0 32 24.2 05 3.8 100 95.8 27 20.5 05 3.8 HAI 120 70 58.3 43 35.8 07 5.8 76 63.3 35 29.2 09 7.5 BA 101 64 63.4 31 30.7 06 5.9 70 69.3 21 20.8 10 9.9 BỐN 112 73 65.2 34 30.4 05 4.5 75 67.0 26 23.2 11 9.8 NĂM 100 65 65.0 31 31.0 04 4.0 62 62.0 30 30.0 08 8.0 TC 565 367 65.0 171 30.3 27 4.8 383 67.8 139 24.6 43 7.6 Kết quả qua cuộc thi như sau: 1. Cấp trường: *.Giáo viên: 30 giáo viên tham gia dự thi, trong đó: * Cá nhân: Loại A: 20 giáo viên Loại B: 10 Giáo viên Loại C: 0 *Tập thể: Tập thể tổ Một có số lượng GV tham gia 100% và đạt số điểm cao nhất. *. Học sinh: (2 em/ 1 lớp) Số lượng học sinh tham gia thi: 42 em, trong đó: Đạt giải Nhất, nhì, ba: 15 em (3 giải/ 1 khối lớp) Có danh sách kèm- phần phụ lục. 2. Cấp thành phố: * Giáo viên: 2 Giáo viên tham gia thi , trong đó: 01 GV đạt giải Nhất; 01 GV đạt giải Ba * Học sinh: - Cá
Tài liệu đính kèm: