Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp tại trường Tiểu học Nguyễn Trãi - Thị xã Quảng Trị

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp tại trường Tiểu học Nguyễn Trãi - Thị xã Quảng Trị

1. Lí do chọn SKKN:

1.1. Cơ sở lí luận:

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện

Giáo dục đào tạo đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự

nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư

phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội.”; “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới

những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục

tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện;

đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản

trị của các cơ sở giáo dục- đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã

hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”.

Công tác chủ nhiệm lớp là một nội dung về chuyên môn nghiệp vụ của

giáo viên tiểu học. Công tác chủ nhiệm quyết định chất lượng dạy và học của

giáo viên và học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã

hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo

đức cho học sinh. Đặc biệt trong nhà trường tiểu học, vai trò của người giáo viên

chủ nhiệm hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm thay mặt nhà trường quản lý

điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành nhân cách cho

học sinh; là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự

dày công của người giáo viên bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội đang phát

triển, bởi tình hình cuộc sống vẫn đang tồn tại những tác động xấu đến học sinh,

bởi sự mưu sinh của gia đình nên không ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục

con cái cho nhà trường. Bởi thế, thầy cô giáo chủ nhiệm đã trở thành người cha,

người mẹ thứ hai của các em. Điều này đòi hỏi các thầy, cô giáo chủ nhiệm phải

trau dồi kinh nghiệm, phải tận tâm với nghề và hơn hết, phải quan tâm sâu sắc

tới học sinh của mình. Thầy cô giáo chủ nhiệm cũng phải là bạn thân để nắm bắt

những tâm tư, nguyện vọng của các em. Thầy cô đóng vai trò làm chiếc cầu nối

giữa nhà trường với học sinh và gia đình các em; giữa các giáo viên bộ môn với

lớp và học sinh trong lớp.

pdf 15 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 440Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp tại trường Tiểu học Nguyễn Trãi - Thị xã Quảng Trị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o sát đối tượng học sinh. 
 2. Áp dụng các phương pháp giáo dục phù hợp. 
 3. Thực hiện tốt tiết sinh hoạt lớp. 
 4. Hướng học sinh đến những hoạt động đoàn kết, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau. 
 5. Giáo dục học sinh qua các câu chuyện kể. 
 6. Sử dụng phiếu khen thưởng. 
 7. Tạo môi trường học tập thân thiện. 
 8. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 
 Đây là những công việc quan trọng mà tất cả các giáo viên chủ nhiệm lớp 
cần phải làm. 
 Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực hiện từ năm học 2016-2017. 
Sau đó được chỉnh sửa, bổ sung và được hoàn thiện vào cuối năm học 2017-2018 
và được áp dụng đến nay. 
III. NỘI DUNG: 
1. Nội dung lí luận liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu: 
 Công tác chủ nhiệm là một công việc thường xuyên, khá gắn bó với người 
giáo viên và hầu như giáo viên nào cũng từng kinh qua công tác này. Vì vậy, đối 
với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này đều tích lũy cho 
mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, cùng với sự 
tiến bộ của xã hội, sự giao lưu văn hoá, kinh tế, rộng rãi như đã nói ở trên thì 
vấn đề làm sao để đáp ứng tốt vai trò một giáo viên chủ nhiệm là vấn đề không 
hề cũ. Kéo theo, những kinh nghiệm mà giáo viên chủ nhiệm tích lũy được cần 
được quan tâm, chia sẻ, bồi dưỡng thêm nhằm mục đích làm tốt công tác chủ 
nhiệm, làm tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là giáo 
dục, rèn luyện các em ngày càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con 
người lao động “vừa hồng, vừa chuyên”, sống hoàn thiện, có ích trong tương lai. 
 Tuy nhiên, thực hiện công tác chủ nhiệm lớp không phải là lúc nào chúng 
ta cũng thực hiện một việc làm giống nhau với tất cả các đối tượng và thực hiện 
suốt cả năm học, như thế sẽ gây tâm lý nhàm chán, không hiệu quả. Mỗi giáo 
viên cần có những biện pháp cụ thể riêng, những cách làm việc riêng và luôn có 
sự đổi mới, có những biện pháp tích cực để tạo sự mới mẻ, ham thích đối với 
học sinh nhằm thúc đẩy các em thực hiện tốt những yêu cầu mà giáo viên đưa ra. 
2. Thực trạng: 
 Năm học 2016 - 2017, tôi được BGH trường Tiểu học Kim Đồng phân 
công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 1B với tổng số là 28 học sinh. Phần lớn các em 
 5
lớp một đều cùng độ tuổi, đã qua lớp mẫu giáo 5 tuổi nên đa số các em đã nhận 
được mặt chữ cái và chữ số. Song bên cạnh đó vẫn còn một số em tiếp thu chậm, 
chưa thuộc hết bảng chữ cái. Các em còn quá nhỏ, còn mải chơi, nhiều em rất 
hiếu động, chưa ý thức được việc học tập của mình nên lớp học chưa có nề nếp. 
Trong lớp có một học sinh khuyết tật, nhập học muộn nên cả cô và trò rất vất vả. 
Năm học 2017 - 2018, tôi chuyển công tác về trường Tiểu học Nguyễn Trãi, 
được BGH nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5C với tổng số là 
32 học sinh, trong đó có 1 em gặp khó khăn trong học tập, khả năng ghi nhớ 
không bình thường, hơn các bạn trong lớp hai tuổi do đi học muộn và một năm ở 
lại; Năm học 2018 - 2019, tôi được BGH nhà trường phân công giảng dạy và 
chủ nhiệm lớp 5A với tổng số là 29 học sinh (hết học kì I có 1 em chuyển 
trường). Trong đó có 1 em khuyết tật vận động. Trong lớp có một số em thuộc 
diện cá biệt, có em thì gặp khó khăn trong học tập, có em thì gặp khó khăn vận 
động, có em thì quá hiếu động, nghịch ngợm, có em thì không tập trung trong 
giờ học, hay nói chuyện và làm việc riêng, v.v... Một số em ba mẹ làm ăn xa, 
các em ở với ông bà đã già nên việc học của các em hầu như phó mặc cho các 
thầy, cô giáo nên việc giáo dục, rèn luyện các em quả không đơn giản chút nào. 
a. Thuận lợi: 
- Đa số học sinh là con em địa phương, nhà gần trường. 
 - Hầu hết học sinh có ý thức kỷ luật cao, ngoan, lễ phép với thầy cô, biết 
vâng lời cha mẹ. Tích cực tham gia hoạt động phong trào do Đội, trường, lớp tổ 
chức. 
 - Cơ sở vật chất khá đầy đủ, khang trang tạo không khí vui tươi, phấn 
khởi trong học sinh và giáo viên. Phòng học sạch sẽ, thoáng mát. 
 - Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, đội ngũ giáo viên bộ 
môn có chuyên môn vững, nhiệt tình trong giảng dạy. 
 - Được sự nhiệt tình phối hợp chặt chẽ giữa các bậc phụ huynh với cô 
giáo chủ nhiệm. 
b. Khó khăn: 
 - Trường Tiểu học Kim Đồng (năm học 2016 - 2017) có nhiều điểm 
trường, các điểm trường lại xa nhau nên việc phân bổ học sinh giữa các lớp 
không đồng đều, sự giao lưu, học hỏi giữa các em cũng có phần hạn chế. 
 - Vẫn còn một số học sinh cá biệt chưa có ý thức trong học tập. 
 - Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi, không ổn định, 
cha mẹ lo kiếm sống không có thời gian chăm sóc con cái. 
 - Một số học sinh không chăm chỉ, không chuyên cần hoặc chưa nhận 
thức được nhiệm vụ học tập. 
 - Trong lớp có một học sinh khuyết tật lại chuyển đến muộn. Em này ở 
với ông bà ngoại. Ông bà cũng hay đau ốm luôn nên việc kết hợp để rèn luyện, 
dạy dỗ cho em cũng gặp không ít khó khăn. 
 - Một số trường hợp tiếp thu bài được song do tiếp cận sớm với công nghệ 
thông tin, lại không được bố mẹ theo dõi, nhắc nhở thường xuyên nên các em 
chưa tập trung trong học tập. 
 Trên đây là một số thuận lợi và khó khăn mà bản thân tôi gặp phải khi làm 
công tác chủ nhiệm. 
 6
3. Mô tả, phân tích các giải pháp: 
 Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, bản thân tôi rút ra được một số giải 
pháp trong công tác chủ nhiệm, xin chia sẻ cùng các đồng chí, đồng nghiệp: 
3.1. Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra phương pháp giáo dục phù hợp: 
a. Đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát đối tượng học sinh thông qua hồ sơ học 
bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh. 
b. Sau đó, tôi tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ 
nhiệm, các trường hợp cụ thể, như: 
 - Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn. 
 - Học sinh khuyết tật. 
 - Học sinh cá biệt về đạo đức. 
 - Học sinh yếu. 
 - Học sinh có những năng lực đặc biệt. 
3.2 Áp dụng các phương pháp giáo dục phù hợp với từng loại đối tượng: 
3.2.1. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: 
 - Tôi thường xuyên động viên, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần, khi thì 
mấy quyển sách, dăm ba quyển vở, cây bút; khi thì nhắc nhở, động viên các em cố 
gắng vượt qua khó khăn, vươn lên trong học tập, v.v.... 
 - Kêu gọi học sinh cả lớp có tinh thần đoàn kết giúp bạn vượt khó. 
 - Đề đạt với ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp, nhà trường tạo điều kiện 
giúp đỡ những em đó. 
 - Khi có chương trình học bổng hay hỗ trợ gì thì ưu tiên cho các em để khắc 
phục được một phần khó khăn, động viên các em đến lớp, đến trường. Qua đó vừa 
giáo dục được lòng nhân ái cho học sinh và tranh thủ được sự hỗ trợ của nhà trường 
của ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức, các mạnh thường quân. 
3.2.2. Đối với những học sinh khuyết tật: 
 - Tôi dành tình cảm ưu ái hơn, thường xuyên quan tâm đến những khó 
khăn, vướng mắc hay mặc cảm của các em về những khiếm khuyết của mình. 
 - Chú ý cách bố trí chỗ ngồi phù hợp, cách đặt câu hỏi gợi mở khi tìm 
hiểu bài và sự đòi hỏi yêu cầu về nội dung bài học sẽ khác hơn so với học sinh 
bình thường. 
 - Thường xuyên gặp gỡ phụ huynh để kết hợp theo dõi diễn biến về sức 
khoẻ và học tập của các em. 
 - Nhắc nhở học sinh trong lớp quan tâm, hỗ trợ bạn, không được chọc 
ghẹo hay trêu đùa những khiếm khuyết của bạn,v.v... 
3.2.3. Đối với học sinh cá biệt về đạo đức: 
 - Tôi tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa 
bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo Hoặc 
trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được 
 - Tôi dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh 
nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối, tôi không sử dụng phương pháp trách phạt, 
mà luôn gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen thưởng kịp 
thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong tổ hoặc trong lớp nhằm gắn với các 
em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình. 
 7
3.2.4. Đối với học sinh học tiếp thu bài chậm hay học sinh gặp khó khăn 
trong học tập: 
 - Tôi tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn 
nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều 
việc hoặc em đó có lỗ hổng về kiến thức nên cảm thấy chán nản. 
 - Tôi lập kế hoạch giúp đỡ học sinh bằng những việc cụ thể như sau: 
 + Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời 
gian ngoài giờ lên lớp. 
 + Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được 
nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em. 
 + Thường xuyên kiểm tra các em đó trong quá trình lên lớp. 
 + Tổ chức cho các em học theo nhóm để học sinh tiếp thu bài tốt giúp đỡ 
học sinh tiếp thu bài chậm tiến bộ hơn. 
 + Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự 
tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em. 
 + Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, 
xấu hổ trước bạn bè. 
3.2.5. Đối với những học sinh có năng lực đặc biệt: 
 - Qua các hoạt động, tôi phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về 
văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạđể cùng với các thầy cô giáo bộ 
môn bồi dưỡng cho các em phát triển tốt khả năng của mình. 
 - Cùng với nhà trường lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các em. 
 - Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê, hứng thú học tập thông qua 
những hội thi, những buổi nói chuyện ngoại khoá hoặc gần gũi nhất ngay trong 
tiết học chính khoá. 
 Tóm lại dù với đối tượng nào, tôi đặc biệt chú ý tác động tình cảm, động 
viên khích lệ kịp thời những nỗ lực, cố gắng của các em, phối hợp với phụ 
huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt. 
3.3. Thực hiện tốt tiết sinh hoạt lớp: 
 - Trong giờ sinh hoạt lớp, tôi tạo cho các em tâm thế thoải mái, không gây 
sức ép nặng nề đối với học sinh bằng những lời trách phạt, phê bình mà tập cho 
các em biết phê và tự phê. Trong mỗi tiết sinh hoạt lớp, tôi cho học sinh tự nhận 
xét ưu, khuyết điểm bằng nhiều hình thức khác nhau như: Cán bộ lớp nhận xét, 
cá nhân tự nhận xét. Bên cạnh đó, tôi cũng tạo điều kiện cho học sinh bày tỏ 
những suy nghĩ của mình qua một tuần học: những điều em thích, những điều 
em chưa thích, mong muốn của em,... Qua đó, tôi nắm được tâm tư, nguyện 
vọng của từng học sinh mà có những biện pháp giáo dục phù hợp. 
 - Cũng trong tiết sinh hoạt lớp, tôi đưa ra những yêu cầu, nội dung về rèn 
luyện đạo đức, học tập rồi tổ chức cho học sinh thảo luận, lập kế hoạch hành 
động cụ thể. Tôi nhận xét và chọn những hành động thiết thực để các em thực 
hiện. Sau mỗi tuần, hoặc thời gian quy định, tôi cho học sinh tự nhận định, đánh 
giá lại những việc đã làm được và chưa làm được so với kế hoạch, từ đó rút kinh 
nghiệm để thực hiện tốt hơn. 
 - Bên cạnh đó, trong các tiết sinh hoạt lớp, tôi lồng ghép một số hoạt động 
giáo dục về quyền trẻ em, an toàn giao thông, giáo dục bảo vệ môi trường, rèn 
 8
các kĩ năng sống, tìm hiểu về lịch sử,... nêu những tấm gương tốt cho học sinh 
noi theo. 
 3.4. Hướng học sinh đến những hoạt động đoàn kết, quan tâm, giúp đỡ 
nhau: 
 Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi tổ chức các hoạt động cho học sinh 
giao lưu, tìm hiểu về nhau. Để giúp các em biết quan tâm, giúp đỡ nhau thì ban 
đầu trong mỗi ngày học, tôi dành ra một khoảng thời gian để trò chuyện cùng 
các em, hỏi các em có những gì vui, buồn, điều gì hay,... chia sẻ với cô và các 
bạn. Dần dần sau đó, tôi cho các em tự đi tìm hiểu, chia sẻ với nhau. Qua những 
hoạt động đó tạo mối gắn kết các em lại thành một tập thể đoàn kết, thương yêu, 
quý mến nhau. 
 Ngoài ra, tôi còn tạo cho học sinh biết đối xử thân thiện, hòa nhã với 
nhau, xưng hô lịch sự, biết dùng lời hay ý đẹp để nói với nhau. 
3.5. Giáo dục học sinh qua các câu chuyện kể: 
 Trong những giờ học đạo đức, tiết sinh hoạt lớp,... tôi kể cho học sinh 
nghe những câu chuyện về những tấm gương vượt khó học giỏi, con ngoan trò 
giỏi, những người bạn tốt nhằm giáo dục các em về cách ứng xử, giao tiếp trong 
cuộc sống. 
 Ví dụ: Qua câu chuyện kể “Mẹ mãi mãi bên con”, tôi giáo dục các em về ý 
chí vươn lên, vượt khó trong cuộc sống, về sự hiếu thảo, cách cư xử với cha mẹ 
ngay từ khi còn nhỏ. 
3.6. Sử dụng phiếu khen thưởng: 
 Để tạo hứng thú, tinh thần tích cực thi đua đối với học sinh (các em lớp 1), 
tôi tặng phiếu khen thưởng cho các em 1 tuần/ 1 lần về các mặt học tập, đạo đức, 
phong trào, thực hiện nội quy, rèn chữ- giữ vở 
 Tuy nhiên, việc sử dụng phiếu khen thưởng không phải là suốt cả năm học 
chỉ sử dụng một số loại phiếu và cách khen thưởng, mục tiêu cần đạt như nhau. 
Mà tôi thay đổi thường xuyên về nội dung phiếu, về tiêu chí cần đạt được, về 
cách khen thưởng đối với từng loại phiếu để kích thích sự hứng thú, tiến bộ ở 
học sinh. 
 Ví dụ: Thời gian đầu của Học kỳ I, tôi theo dõi, dán phiếu khen thưởng cho 
học sinh 2 tuần/ 1 lần, sau đó tôi phát cho học sinh dán. Để nhận được phần 
thưởng, học sinh cần đạt trên 14 phiếu cho tổng hai đợt khen thưởng trong tháng 
đó. 
 Sang học kỳ II, tôi cho học sinh tự đánh giá các hoạt động của bản thân 
sau đó các thành viên trong tổ sẽ cho ý kiến. Tôi kết hợp với việc đánh giá của 
mình để phát phiếu khen thưởng cho học sinh. Để nhận được phần thưởng, tôi 
sẽ cho các tổ thảo luận, chọn ra các học sinh thực hiện tốt các mặt hoạt động, 
các học sinh có tiến bộ để khen thưởng. 
 Cứ mỗi tháng, tôi sẽ tổng kết phát thưởng 1 lần. Phần thưởng là những 
quyển vở, cây bút,những quyển truyện về những tấm lòng hiếu thảo, những 
tấm gương vượt khó học giỏi, v.v... 
 Ngoài ra, tôi cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các em tham gia các 
hoạt động phong trào, vui chơi của nhà trường trong các giờ sinh hoạt ngoài 
 9
giờ. Qua đó các em được rèn luyện một số kĩ năng như: kĩ năng hợp tác, tinh 
thần đồng đội, sức khỏe 
3.7. Tạo môi trường học tập thân thiện: 
 Ngay từ đầu năm học, tôi hướng dẫn học sinh cùng thực hiện trang trí lớp 
học tích cực, thân thiện: hướng dẫn các em trình bày các sản phẩm học tập của 
mình, ghi những bài học cần nhớ, sưu tầm tranh ảnh có liên quan đến các kiến 
thức được học. Qua đó các em được học hỏi những điều hay từ bạn mình. 
 Bên cạnh đó, tôi còn tập cho các em có thói quen tự giác làm việc, biết tự 
tìm hiểu cuộc sống xung quanh mình bằng cách yêu cầu các em đọc sách báo, 
xem ti vi, nghe tin tức,... Sau đó các em cùng trao đổi, chia sẻ với bạn để cùng 
nhau hiểu biết về cuộc sống xung quanh. 
 Ngoài ra, tôi cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các em tham gia các 
hoạt động phong trào, vui chơi của nhà trường. Qua đó các em được rèn luyện 
một số kĩ năng như: kĩ năng hợp tác, tinh thần đồng đội, sức khỏe 
3.8. Công tác phối hợp ba hình thức giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội: 
 Đối với phụ huynh: Tôi vận động, động viên phụ huynh, cùng với phụ 
huynh bàn bạc một số giải pháp nhằm giúp con em họ học tốt, giáo dục đạo đức 
ở gia đình, thu nộp đầy đủ các khoản quy định. Cùng ban đại diện cha mẹ học 
sinh của lớp thăm hỏi học sinh đau ốm kịp thời, học sinh gặp khó khăn thường 
xuyên để có hướng giúp đỡ... Thường xuyên thông tin để phụ huynh biết tình 
hình học tập của con em mình từ đó có định hướng để giáo dục tốt con em. 
 Phát huy tối đa vai trò của các tổ chức chính trị trong nhà trường đặc biệt 
là đội TNTP Hồ Chí Minh. 
 + Bám sát kế hoạch Hội đồng Đội, phối hợp với tổng phụ trách và các lớp 
trong khối, trong trường tạo ra các sân chơi bổ ích, thiết thực cho học sinh. 
 + Thường xuyên kiểm tra nhắc nhở việc giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi 
trường sạch sẽ. 
4. Kết quả thực hiện: 
 Sau hai năm thực hiện, tôi nhận thấy: 
 - Học sinh hứng thú học tập, các em có nhiều tiến bộ rõ rệt trong học tập 
cũng như rèn luyện. Các em thi đua nhau thực hiện tốt các kế hoạch, hoạt động 
mà Trường, Liên đội, Lớp đưa ra. 
 Hiệu quả của các giải pháp mà tôi đã đưa ra là: 
Năm học Tên HS cá biệt Đầu năm học Cuối năm học 
2016 - 2017 
Nguyễn Thanh 
Phương (1B) 
 Nhập học muộn, 
nghỉ học nhiều, 
không tập trung 
trong giờ học, không 
hợp tác với bạn 
trong các hoạt động. 
 Đi học đều, ngoan 
hơn, có tiến bộ trong 
học tập, tích cực phát 
biểu xây dựng bài, đã 
biết hợp tác với bạn 
trong các hoạt động. 
 10 
2017 - 2018 
Huỳnh Tuấn Kiệt 
(5C) 
 Đầu năm học phải 
thi lại cả hai môn 
Toán và Tiếng việt.
Tiếp thu bài chậm, 
chữ viết nguệch 
ngoạc, thiếu nét;
mặc cảm do lớn tuổi, 
ít hợp tác với bạn, 
chưa mạnh dạn, tự 
tin trong học tập. 
 Có nhiều tiến bộ 
trong học tập; chữ viết 
có tiến bộ, ít mắc lỗi 
hơn đầu năm học; em 
đã mạnh dạn hơn trong 
giao tiếp, hợp tác, 
không còn mặc cảm, tự 
ti; vui vẻ, hòa đồng với 
các bạn. 
Nguyễn Duy Hưng 
(5C) 
Nghịch ngợm, hay 
gây chuyện với các 
bạn, tiếp thu bài 
chậm, không chịu 
hợp tác với các 
bạn, 
Tính nết có sửa đổi, 
ngoan hơn, biết đoàn 
kết, hợp tác với bạn 
bè, không còn chọc 
phá các bạn. có nhiều 
tiến bộ trong học tập. 
2018 - 2019 
(Học kì I) 
Nguyễn Quốc Huy 
(5A) 
 Hiếu động, hay 
gây chuyện với các 
bạn, nói năng thô lỗ, 
ngồi học không tập 
trung, nhiều lần chưa 
hoàn thành bài cô 
giao, 
Chú ý nghe giảng, 
hoàn thành các bài cô 
giao, có nhiều tiến bộ 
trong học tập, biết giúp 
đỡ bạn, nói năng lễ 
phép với thầy cô,
không còn gây gổ, 
chọc phá bạn. 
Nguyễn Lê Nguyên 
Bảo (5A) 
Học được nhưng có 
tật nói dối, nói leo, 
hay chọc phá bạn, 
chưa tập trung trong 
giờ học, rất hiếu 
động, dễ nổi nóng 
Tính nết có sửa đổi, đã 
biết vâng lời thầy cô, 
ba mẹ,; Tập trung 
hơn trong giờ học, 
không còn chọc phá 
bạn, tích cực tham gia 
các hoạt động của lớp, 
đặc biệt là các hoạt 
động phong trào, v.v 
 - Bản thân giáo viên khi thấy lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình 
đề ra là một sự thành công lớn. Nhìn các em vui khi nhận phiếu thưởng, quà 
tặng; thấy các em hăng hái thi đua học tốt, tích cực hoạt động phong trào tôi 
thực sự thấy hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn khởi của 
phụ huynh học sinh. Đó chính là thành quả to lớn nhất mà người giáo viên nào 
cũng mong muốn đạt được. 
 - Phụ huynh tin tưởng, yên tâm đối với việc dạy bảo của giáo viên. Bên 
cạnh đó, phụ huynh cũng thường xuyên theo dõi được việc học hành, đạo đức 
của con em và có nhiều sự hỗ trợ đối với giáo viên. Phụ huynh cũng cảm thấy 
 11 
phấn khởi khi thấy con em mình được giáo viên quan tâm, các em có nhiều tiến 
bộ, các em ngày càng hoàn thiện và thành những đứa trẻ ngoan, học tốt. 
 - Lớp tôi chủ nhiệm cũng đã đạt được nhiều thành tích trong các mặt học 
tập, các hoạt động giáo dục và rèn luyện. Số lượng HS hoàn thành xuất sắc và 
hoàn thành tốt các nội dung học tập và rèn luyện tăng lên rõ rệt. 
 Kết quả đạt được về các mặt qua các năm học như sau: 
Năm học Lớp 
Số 
lượng 
HS 
Duy trì 
sĩ số 
Năng lực Phẩm chất 
HTT HT CHT TỐT ĐẠT CCG 
2016 - 2017 1B 28 100% 64,3% 35,7% 0% 80% 20% 0% 
2017 - 2018 5C 32 100% 56,3% 43,7% 0% 85% 15% 0% 
2018 - 2019 
(Học kì I) 
5A 29 100% 55,2% 44,8% 0% 89,7% 10,3% 0% 
 Khen thưởng: 
Năm học Lớp 
HS HTXS CÁC NỘI DUNG 
HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN 
HS CÓ THÀNH TÍCH 
VƯỢT TRỘI 
HỌC KÌ I CUỐI NĂM HỌC KÌ I CUỐI NĂM 
2016 - 2017 1B 15 em-53,8% 18 em-64,3% 10em-35,7% 8em-28,6% 
2017 - 2018 5C 10 em-31,3% 18 em-56,3% 12 em-37,5% 10 em-31,3% 
2018 - 2019 
(Học kì I) 
5A 10 em-34,5% 8 em-27,6% 
 Kết quả thi đua: 
 Năm học 2016 - 2017: 
- Phong trào: “Vở sạch - chữ đẹp”: Lớp được xếp Giải Nhất toàn trường 
(100% bộ vở xếp loại A). 
- Lớp có 2 em đạt giải nhất và nhì trong hội thi viết chữ đẹp cấp Trường 
và được tham dự kì thi viết chữ đẹp cấp thị. 
- Tập thể lớp: Toàn diện. 
 Năm học 2017 - 2018: 
 - Văn nghệ: Giải Nhất. 
 - Rung chuông vàng: Giải Nhất (Thiện Hân). 
 - Bóng đá: Giải Nhì. 
 - Sáng tạo trẻ: Giải Nhì (Quốc Quân; Minh Hoàng; Minh Sang). 
 - Giao lưu “ Hùng biện Tiếng Anh”: giải xuất sắc (Anh Thư) 
 - Nề nếp: Thứ 1/19 lớp. 
 - Lớp được khen mặt nề nếp. 
 Học kì I năm học 2018 - 2019

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_lu.pdf