2. Các hình thức và kĩ thuật vào bài
Tuỳ theo mục đích và đặc thù của từng giờ dạy, ngừơi thầy có thể chọn những hoạt động và thủ thuật cụ thể cho phù hợp. Sau đây là một số những gợi ý:
2.1. Tạo môi trường thuận lợi
Tạo ra không khí dễ chịu giữa thầy và trò, đồng thời tạo thế chủ động tự tin cho học sinh bằng các hoạt động như chào hỏi, tự giới thiệu về mình, hỏi chuyện, tán gẫu, kể chuyện vui.
Tập trung sự chú ý của học sinh, ổn định trật tự lớp học, gây hứng thú cho học sinh bằng cách bắt đầu ngay một hoạt động học tập nào đó chẳng hạn :
2.1.1. Nghe một bài nghe ngắn
Nghe qua có vẻ đây là một hoạt động khó nhưng để đạt được mục đích bài dạy đây lại là phương pháp rất hữu hiệu. Học sinh có thể nhanh chóng tập trung và chủ động tiếp thu bài học, tuy nhiên cũng không nên cho nghe những đoạn quá dài hoặc không phù hợp với trọng tâm bài dạy. Giáo viên nên tự thiết kế bài nghe cho học sinh một cách đễ dàng thông qua việc sử dụng phần mềm COOL SPEECH hoặc TALKIT.
g 10 : xây dựng đề cương nghiên cứu Tháng 11 năm 2012 : phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại, nghiên cứu tài liệu và viết dàn ý Tháng 12 năm 2012 : tìm hiểu, quan sát, tiếp xúc trao đổi với học sinh, thực nghiệm sư phạm. và viết chi tiết đề tài. Tháng 1,2 năm 2012 : hoàn thành đề tài. II. PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Thực trạng của vấn đề 1.1. Tình hình chung Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới về chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy và học trong nhiều trường phổ thông vẫn còn chịu nặng nề bởi mục tiêu thi cử " chạy theo thành tích " học để thi, dạy để thi. Do đó việc dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, thông báo kiến thức mang tính đồng loạt, thiên về lý thuyết, xa rời thực tiễn, tập trung ôn luyện kiến thức đáp ứng kiểm tra thi cử, chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Việc xác định nội dung trọng tâm bài giảng của một số giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng nên khi truyền thụ kiến thức cho học sinh chưa sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các phương tiện, thiết bị theo yêu cầu của bài do đó chưa khuyến khích được sự sáng tạo của học sinh, chưa khuyến khích sự nổ lực vươn lên của mỗi học sinh trong từng tiết học. * Nguyên nhân Từ những thực trạng trên có thể thấy được từ một số nguyên nhân sau : Vẫn còn mét sè giáo viên chưa trang bị cho mình một cách hệ thống, bài bản các bước lên lớp, thúc đẩy đổi mới PPDH còn lúng túng. Phần nhiều giáo viên còn hiểu đổi mới PPDH ở hình thức bên ngoài, chưa chú trọng đến bình diện bên trong. Phương tiện, thiết bị phục vụ cho giảng dạy ở trường còn thiếu không thuận lợi cho đổi mới PPDH. Đời sống của một bộ phận giáo viên còn nhiều khó khăn, bận rộn với công việc gia đình nên ít có thời gian đầu tư cho bài giảng. Động cơ thái độ học tập của nhiều học sinh chưa tốt, học sinh vẫn quen với lối học thụ động, ỷ lại, học tủ, học lệch, chưa sẵn sàng tham gia một cách tích cực chủ động với các nội dung học tập, chưa tự đánh giá chất lượng học tập của bản thân so với yêu cầu của chương trình và đòi hỏi của xã hội. Các SKKN về ph¬ng ph¸p d¹y häc chưa có tính thực tiễn cao, cha ®i s©u vµo tõng phÇn viÖc cô thÓ và chưa được áp dụng một cách rộng rãi. 1.2. Thực trạng kh©u vµo bµi ë trường THCS Thực tế trực tiếp giảng dạy tại trường THCS Cẩm Tân và tham gia dự giờ một số đồng chí giáo viên dạy Tiếng Anh trong huyện cho thấy các thầy, cô đã xác định đúng trọng tâm bài học, hướng học sinh thực hành theo đường hướng giao tiếp, song khi kết thúc mỗi tiết học lại thấy chưa được thoả mãn về một khâu lên lớp nào đó. Điều đó có thể là sự kết nối giữa thầy và trò, tiết học chưa thật sự thân thiện, học sinh tiếp thu kiến thức có phần thụ động, thực hành có phần gượng ép. Tất cả những điều này chúng tôi đều có trao đổi với nhau sau mỗi giờ học, sau khi nghiên cứu và tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp tôi có thể lí giải tình trạng này bằng các nguyên nhân sau: * Tâm lí sợ học môn Tiếng Anh Tiếng Anh vẫn được đánh giá là khó bởi vì vừa phải thông hiểu, vận dụng kiến thức như môn Toán lại phải học và thực hành như môn Văn, hay nói cách khác Tiếng Anh là sự giao thoa, kết hợp hài hoà giữa hai phương pháp học Toán và Văn do đó học sinh mất rất nhiều thời gian ngoài giờ cho môn học này. Bên cạnh đó âm tiết, trọng âm câu ( Tiếng Việt không có trọng âm câu ) cũng gây những trở ngại không nhỏ cho tâm lí học Tiếng Anh của mỗi học sinh. * Thiếu không khí học Tiếng Anh Mặc dù đã có đổi mới trong chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học song để thực hiện dạy Tiếng Anh theo đường hướng giao tiếp, tập trung giảng dạy các kĩ năng thì nhiều giáo viên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn vì học sinh không nhiệt tình hưởng ứng, không chủ động thực hiện các yêu cầu của giáo viên trên lớp một phần không nhỏ là do không khí trong giờ học quá ngột ngạt, cái tôi của học sinh bị chèn ép, không phát huy được tính tích cực, sức sáng tạo của học sinh. * Kiểm tra bài cũ chưa linh hoạt Kiểm tra bài cũ là một hoạt động cần thiết để đánh giá, xếp loại học sinh tuy nhiên đây là một hoạt động mang tính hai mặt. Hoặc tạo không khí rất thuận lợi cho giờ học khi học sinh trả lời đúng và đạt điểm cao, hoặc cảm giác căng thẳng khó chịu không chỉ riêng với giáo viên mà cho cả học sinh khi học sinh không hiểu, không trả lời được câu hỏi giáo viên đưa ra. Điều này trực tiếp tác động xấu đến các hoạt động dạy - học kế tiếp làm ảnh hưởng đến kết quả giờ học. * Vào bài còn rập khuôn , máy móc Thông thường giáo viên vào bài chỉ giới thiệu qua về nội dung bài học sau đó tập trung vào phần bài mới - phần giới thiệu ngữ liệu mà quên rằng vào bài tuy chỉ chiếm một khoảng thời gian rất ngắn so với cả bài học nhưng lại chuẩn bị cho học sinh về tâm lí và kiến thức cho bài học mới nên việc liên tục đổi mới, sử dụng linh hoạt các cách vào bài để làm rõ mục tiêu bài học, đưa bài giảng tiến dần đến thành công. 2. Tầm quan trọng của khâu vào bài ( Warm up ) trong một tiết Tiếng Anh Với tính chất của một giờ học ngoại ngữ, những hoạt động vào bài có ý nghĩa như một phần của bài học mà nếu không có sẽ làm cho những phần tiếp theo khó hoặc không thực hiện được. Cụ thể, những hoạt động này thường có vai trò tạo tình huống, bối cảnh cho phần giới thiệu, hoặc tạo nhu cầu cho một hoạt động nào đó của bài - là những điều kiện rất cần thiết và mang tính tiên quyết để bài học sinh động, mang tính giao tiếp cao. Với những ý nghĩa trên, khi dự định làm gì trong phần này người thầy luôn luôn đặt câu hỏi làm như vậy đê làm gì, làm nhằm mục đích gì và liệu làm như vậy có đạt được mục đích đã dự định hay không? Như vậy các hoạt động vào bài không chỉ để cho vui, cho có màu sắc và tuỳ thích mà ngược lại, chúng được nhìn nhận như một việc làm không thể thiếu cho một bài học ngoại ngữ. Cách vào bài có phương pháp sẽ quyết định phần lớn kết quả của bài học. CHƯƠNG II : CÁC GIẢI PHÁP, NHÓM GIẢI PHÁP CỤ THỂ 1. Mục đích 1.1. Ổn định lớp Đây là một viêc làm vô cùng quan trọng cho phép một thời gian để học sinh có thể thích nghi với bài học mới : khi có sự thay đổi về thời gian, không gian, địa điểm hay tình huống lớp học như chuyển sang lớp học mới, thay đổi giáo viên mới, vừa ra chơi vào, học sinh vào muộn, học sinh còn đang nói chuyện chưa sẵn sàng cho bài học mới. Vì vậy việc sử dụng một số câu hỏi quen thuộc, đơn giản để ổn định lớp là rất cần thiết như : - How are you ? - How do you feel now? - What is the weather like to day? - Who is absent to day? - Who is on duty to day?... Những câu hỏi này sẽ nhanh chóng đưa các em hoà nhập vào không khí chung của lớp học, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giáo dục tiếp theo. 1.2. Chuẩn bị tâm lí, kiến thức cho bài học mới Cho dù sau khi kết thúc tiết học trước giáo viên đã hướng đẫn học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà, nhưng số lượng học sinh bỏ qua, hoặc quên việc này là không ít và số này luôn sợ bị phát hiện và bị yêu cầu phải trả bài nên luôn loay hoay tìm cách đối phó với giáo viên bộ môn, do đó ta không nhất thiết phải kiểm tra khắt khe với nhóm học sinh này mà chỉ với những câu hỏi đơn giản ( như đã nói ở trên ) cùng với những lời nhắc nhở nhẹ nhàng có tính phê bình chung cho cả lớp sẽ giúp cho giáo viên và học sinh giảm thiểu tính căng thẳng, tạo không khí thân thiện ban đầu, gây dựng tinh thần sáng tạo của học sinh trong phần tiếp theo của tiết học. Sau đó sử dụng các thủ thuật dẫn dắt, gợi mở để học sinh chủ động tập trung lĩnh hội các kiến thức của bài ( Sẽ đề cập cụ thể hơn trong phần tạo môi trường học thuận lợi ). 1.3. Khơi dậy những kiến thức có sẵn của học sinh có liên quan, cần thiết cho bài học mới Như chúng ta đã biết cấu trúc của chương trình sách giáo khoa cấp THCS được xây dựng theo quan điểm đồng tâm, do đó kiến thức sẵn có của học sinh đáp ứng được một phần nào đó yêu cầu của bài mới. Trong phần vào bài nếu chúng ta khơi dậy được những kiến thức này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian cho hoạt động vào bài và kết quả ban đầu của tiết học sẽ được như mong muốn Ví dụ: về chủ điểm Personal information Lớp 6 học sinh đã biết giới thiệu một số thông tin về bản thân như : - I am.... - I am ...years old - I live in..... - He is... ........................... Đến phần này của lớp 7 có thể thực hiện như sau : Hoạt động của giáo viên - Introduce your self please - Look at this example 1. My name is Le Tuan Anh 2. His name is Ly Hoang Nam Le and Ly => family name Tuan and Hoang => middle name Hoạt động của học sinh - My name.... - I am ...years old - I am in class... - I live in..... Như vậy chúng ta có thể vừa giúp học sinh sử dụng những kiến thức đã học ở lớp 6 vừa giới thiệu được ngữ liệu mới ở lớp 7 một cách chủ động và linh hoạt 1.4. Giúp học sinh liên hệ giữa bài học cũ với bài học mới Trong mỗi đơn vị bài học ( 5 hoặc 6 tiết ) việc liên hệ giữa kiến thức cũ và bài học mới là cách tốt nhất để giúp học sinh ôn tập, củng cố lượng từ vựng và các cấu trúc ngữ pháp qua đó cũng giiúp học sinh tăng cường khả năng giao tiếp cho học sinh. Ví dụ : Tiết 10 ( PPCT ) Bài 2 - Clothings lớp 9 Tiết Read: Học sinh đã đọc hiểu một đoạn văn về chiếc áo dài Việt Nam. Tiết11 ( PPCT ) Bài 2 - Clothings lớp 9 Tiết Write : Mục tiêu bài học : HS viết về quan điểm của mình khi mặc Ao dai hoặc Casual clothes ở trường bằng cách sử dụng những gợi ý cho trước. Chúng ta có thể vào bài như sau: Hoạt động của giáo viên - Show a picture ( a girl is wearing Ao dai ) ? What is she wearing ? Do you like wearing Ao dai or casual clothes at school? Why? Hoạt động của học sinh - Answer Cho dù câu trả lời của học sinh có như thế nào thì mục đích của giáo viên vẫn đạt được là hướng học sinh đến mục đích của bài học là hoàn thành một bài viết về quan điểm của mình khi mặc " Ao dai " hoặc " Casual clothes " ở trường. 1.5. Gây hứng thú cho bài học mới Tôi đã đọc một vài sáng kiến về cách gây hứng thú cho học sinh trong một giờ học ngoại ngữ và nhận thấy " Đầu xuôi " là vô cùng quan trọng. Bằng các hình thức và kĩ thuật vào bài ( sẽ trình bày ở phần sau ) không những giúp học sinh thoải mái, tự tin trong tiết học mà còn tạo được không khí thân thiện giữa thầy và trò làm điều kiện tiên quyết cho thành công của tiết học. 2. Các hình thức và kĩ thuật vào bài Tuỳ theo mục đích và đặc thù của từng giờ dạy, ngừơi thầy có thể chọn những hoạt động và thủ thuật cụ thể cho phù hợp. Sau đây là một số những gợi ý: 2.1. Tạo môi trường thuận lợi Tạo ra không khí dễ chịu giữa thầy và trò, đồng thời tạo thế chủ động tự tin cho học sinh bằng các hoạt động như chào hỏi, tự giới thiệu về mình, hỏi chuyện, tán gẫu, kể chuyện vui... Tập trung sự chú ý của học sinh, ổn định trật tự lớp học, gây hứng thú cho học sinh bằng cách bắt đầu ngay một hoạt động học tập nào đó chẳng hạn : 2.1.1. Nghe một bài nghe ngắn Nghe qua có vẻ đây là một hoạt động khó nhưng để đạt được mục đích bài dạy đây lại là phương pháp rất hữu hiệu. Học sinh có thể nhanh chóng tập trung và chủ động tiếp thu bài học, tuy nhiên cũng không nên cho nghe những đoạn quá dài hoặc không phù hợp với trọng tâm bài dạy. Giáo viên nên tự thiết kế bài nghe cho học sinh một cách đễ dàng thông qua việc sử dụng phần mềm COOL SPEECH hoặc TALKIT... Ví dụ : Lớp 7 tiết 6 ( PPCT ) - Bài 1; B. Names and address Kĩ năng luyện tập : - Nghe và nghi lại thông tin - Luyện các kĩ năng nói, hỏi - đáp về các thông tin các nhân Kiến thức cần đạt : - Nghe được các địa điểm được nói đến - Nghe và xác định được các số chỉ khoảng cách - Sau khi nghe, dùng các thông tin đã nghe được để hỏi - đáp về bài nghe - Điền vào form các thông tin của mình bằng Tiếng Anh Ta có thể cho HS nghe một đoạn như sau: " Hi, my name is Nam, I am 11 years old, I am in grade 6, class 6A. I go to school every morning. My school isnot far from my house so I walk. It takes me about 15 minutes to get to school. " Với những kiến thức sẵn có của mình HS có thể dễ dàng tiếp nhận các thông tin được nghe, và sẵn sàng cho việc tiếp thu bài học mới. 2.1.2. Quan sát tranh, hỏi và trả lời về tranh Những hình ảnh sẵn có trong sách giáo khoa rất sinh động, bên cạnh đó Sở giáo dục và đào tạo tỉnh cũng đã cung cấp những đĩa CD-ROM chứa đầy đủ các bức tranh hình ảnh trong bộ sách giáo khoa THCS , giáo viên chỉ việc in, phóng to, tô màu là có những bức tranh , hình ảnh cần thiết cho bài giảng. Ngoài ra việc khai thác nguồn hình ảnh trên Internet cũng mang lại những hiệu quả tích cực. Học sinh có thể đặt câu, trả lời câu hỏi theo tranh .. 2.1.3. Giải một câu đố Học sinh vốn rất tò mò và ham tìm hiểu, vì vậy trước một thử thách nhẹ nhàng, hấp dẫn ở đầu giờ học sẽ phát huy được tính sáng tạo, tích cực của học sinh trong cả tiết học. Làm cho giờ học trở nên sôi nổi , nhẹ nhàng. 2.1.4. Đố từ Là một hoạt động mà các giáo viên ưa thích, giúp họ kiểm tra được vốn từ vựng của học sinh và thông qua đó có thể giới thiệu từ, cấu trúc mới thông qua các từ được kiểm tra. Các thủ thuật thường dùng là : jumble words, hangman, shark attack ... 2.1.5. Chơi một trò chơi ngôn ngữ Theo yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng hiện nay thì giáo viên chủ yếu giảng dạy theo đường hướng giao tiếp, cho học sinh tham gia các trò chơi ngôn ngữ giúp cải thiện các kĩ năng nghe nói Tiếng Anh trong và ngoài nhà trường. Có thể sử dụng các kĩ thuật như : chained game, find some one who.... Ví dụ : Giáo viên bắt đầu cáu " I am a student. " sau đó yêu cầu các HS khác nhau nói thêm các câu khác nhau bắt buộc phải sử dụng câu của người nói trước đó. có thể có các đáp án như : HS 1 : I am a student, I am in grade 6 HS 2 : I am a student, I am in grade 6, I have math on monday HS 3 : ........................................................................................ 2.1.6. Làm một bài tập về từ vựng có tính thách đố... Phương pháp này thực ra không khác nhiều so với các phương pháp truyền thống khác, chỉ là làm sao cho phù hợp với đối tượng và mục đích bài dạy cùng với sự linh hoạt của các loại hình bài tập đưa ra giúp học sinh mở rộng vốn từ, loại từ, cách dùng từ trong những trường hợp khác nhau. thường là tìm từ đồng nghĩa, từ ngược nghĩa, viết lại câu với từ cho sẵn mà nghĩa không đổi... Dù phương pháp hay thủ thuật vào bài có hay đến mấy thì cũng chỉ là " Tĩnh ", trong khi các tình huống xảy ra trên lớp học, đối tượng học sinh, mục đích bài dạy là luôn " Động ". Do đó việc thường xuyên thay đổi, sử dụng linh hoạt các phương pháp, thủ thuật vào bài mới mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. 2.2. Tạo tâm lí và chuẩn bị kiến thức cho bài học mới Cho học sinh tâm lí thoải mái và đoán biết được nội dung của bài học là thành công bước đầu của một tiết dạy. Làm tốt điều này trong phần vào bài tạo điều kiện thuận lợi cho một không khí học sôi nổi, một tiết học thân thiện và hiệu quả. 2.2.1. Đặt câu hỏi Là một hoạt động đơn giản hiệu quả và tiết kiệm thời gian được đa số giáo viên sử dụng, tạo được thói quen sử dụng tiếng anh trong mỗi giờ học. thường là các câu hỏi xã giao về sức khoẻ, tình hình lớp học, thời tiết...thêm vào đó là các câu hỏi có dụng ý kiểm tra bài cũ và hướng học sinh vào nội dung bài mới. Thông qua các hoạt động này giáo viên có thể nhận ra và sửa các lỗi về phát âm , cách dùng từ , cấu trúc câu của học sinh vào dịp thích hợp. 2.2.2. Ra các bài tập Những bài tập phù hợp với từng đối tượng học sinh sẽ tạo ra sự tự tin rất lớn, không những hệ thống lại được kiến thức, nhóm kiến thức đã học mà còn giúp học sinh cải thiện đáng kể các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, tiếp cận nhanh hơn với mục đích bài học. 2.2.3. Dùng giáo cụ trực quan khi giáo viên dùng giáo cụ trực quan trong mỗi tiết học đều mang đến cho học sinh cảm giác gần gũi, bài học trở nên sinh động rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa - nội dung của các bài đọc, bài nghe hay tình huống giao tiếp là những hoạt động quen thuộc ở Viẹt Nam. Điều này giúp học sinh chủ động, linh hoạt hơn lĩnh hội kiến thức và thực hành theo nhóm, cặp có hiệu quả. 2.3.4. Dùng các mẩu chuyện có thật hoặc tự tạo Sự sáng tạo trong khâu vào bài của giáo viên luôn làm cho học sinh quan tâm, tập trung chú ý và cuối cùng vỡ oà trong những tiếng cười sảng khoái hay buồn cười hay lo âu, xót xa cho những nhân vật trong câu chuyện. nên dùng những chuyện cười mang tính giáo dục có liên quan đến những cấu trúc câu trong bài học. Cùng với đó là khơi dậy được cái " Tôi " của các em theo những mục tiêu cụ thể của bài học. 2.3.5. Sử dụng các bài đọc ngắn Tương tự như các câu chuyện, những bài đọc ngắn còn có thể giúp các em phát triển kĩ năng đọc hiểu theo mục đích của bài dạy như : Đọc để giải trí ( Reading for pleasure ); Đọc lấy thông tin cần thiết ( Scanning ); Đọc lấy ý chính ( Skimming )... 3. ý nghĩa của các phương pháp, kĩ thuật dạy học trong khâu vào bài Thực tế cho thấy mở đầu bài học bằng các công việc truyền thống như : kiểm tra bài cũ, chữa bài làm ở nhà, cho điểm và kiểm tra mức độ chuyên cần thường gây một không khí buồn tẻ, đối phó, nhàm chán không tạo được môi trường hiệu quả cho học tập. Đồng thời cũng là những cách ổn định lớp kém hiệu quả nhất. Do vậy để đảm bảo thực hiện đúng qui chế chuyên môn người thầy có thể sử dụng thủ thuật kiểm tra bài cũ một cách gián tiếp thông qua các hoạt động và bài tập mang mục đích (2) mà vẫn có thể cho điểm nếu muốn ( thông qua những câu trả lời và đóng góp của học sinh một cách tự nhiên ). Còn việc kiểm tra sự chuyên cần thuần tuý thì có thể thực hiện bất kì khi nào trong giờ học. Tuy vậy, những hoạt động và thủ thuật dùng cho phần mở bài có thể cùng một lúc đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau. Những hình thức và hoạt động được nêu cho mục đích (1) cũng có thể đáp ứng được yêu cầu của mục đích (2) và ngược lại. Vì vậy cách vào bài tốt nhất là làm sao với cùng một hoạt động dạy học ta có thể thực hiện được một lúc nhiều nhiệm vụ khác nhau đặt ra cho phần mở bài. Ví dụ: Khi giáo viên muốn vào bài vừa muốn kiểm tra kiến thức của học sinh và khai thác vốn kiến thức đó. Đồng thời muốn học sinh chuẩn bị luôn kiến thức và hiểu yêu cầu của bài mới giáo viên có thể đặt ra vấn đề hoặc đặt câu hỏi ( brainstorming ) Như Bài 2 - Clothings lớp 9 đã nêu trên và thêm câu " Why do young people dislike wearing Ao dai at school / at work? " hoặc " Why do young people like wearing casual clothes ? " Như vậy giáo viên vừa kiểm tra được kiến thức cơ bản về bài đọc ( Read ) của học sinh vừa hướng học sinh đến mục tiêu của tiết học là đưa ra quan điểm của mình về trang phục của học sinh ở trường. III. PHẦN KẾT LUẬN Vào bài tuy chiếm một thời gian rất ngắn nhưng lại góp phần không nhỏ cho thành công của một tiết dạy, nếu chúng ta kết hợp hài hoà giữa các phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp với từng kiểu bài, phát huy được tối đa sức sáng tạo của học sinh. Bên cạnh đó là sử dụng linh hoạt các phương tiện dạy học trực quan nhằm phỏt huy tư duy, logic ở học sinh. Tôi tin tưởng rằng chất lượng của các tiết dạy sẽ nâng lên rõ rệt. Sau một thời gian nghiên cứu tại trường THCS Cẩm Tân tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở khối 9 ( 2 lớp ) thu được kết quả như sau : 1. Phương thức kiểm tra Cùng một tiết dạy tôi vào bài theo hai cách khác nhau Tiết dạy thực nghiệm : Tiết Read, bài 3 - A trip to the countryside Lớp 9A - Lớp thực nghiệm : Vào bài theo phương pháp mới, tôi cho HS nghe một đoạn văn : Nam had a wonderful holiday last weekend. He was in Hanoi - the capital city of Viet Nam. He stayed at his uncle’s house for 2 days. He visited a lot of interesting places in Ha Noi such as Uncle Ho’s Mousoleum, Ba Dinh Square, West lake, Le Nin Park, etc. He bought some postcards for his friends and a cap with a national play on it. Nam liked the cap very much. He wore it all day. When returning to Thanh Hoa, he talked to his friends about his vacation. Questions 1. What is the passage about ? 2. Where did he stay? 3. What did he visited? The probadly answers 1. It is about Nam's visit to Ha Noi/ about Nam's holiday/ about Nam's vacation..... 2.
Tài liệu đính kèm: