I. Mô tả hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng việt là một trong những bộ môn giữ
vai trò đặc biệt quan trọng, cung cấp cho học sinh kiến thức phổ thông về
ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Đồng thời
ngôn ngữ cũng chính là phương tiện hữu hiệu nhất giúp học sinh học tập,
khám phá, tích lũy kiến thức, hình thành các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống.
Có thể nói, Tiếng việt là công cụ số một, là chìa khóa mở đường cho học sinh
học tập các môn học khác. Bên cạnh đó, môn Tiếng việt trong bậc Tiểu học
còn giúp cho học sinh bước đầu hiểu được giá trị đặc sắc của nghệ thuật, biết
thưởng thức cái hay, cái đẹp và hình thành, phát triển cho học sinh những
phẩm chất tốt đẹp. Trong học tập Tiếng việt thì phân môn Tập làm văn là
phân môn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học, mang tính chất thực hành
toàn diện, tổng hợp và sáng tạo nhằm giúp học sinh vận dụng vốn từ đã tích
lũy được để viết văn.
Vậy muốn học tốt phân môn Tập làm văn, trước hết mỗi học sinh cần phải
say mê, hứng thú với môn học. Thật vậy, hứng thú làm tăng hiệu quả của quá
trình nhận thức, phát triển sự sáng tạo nhờ đó mà kiến thức tiếp thu được vừa
mang tính tự nhiên lại được khắc sâu. Do vậy mỗi giáo viên phải không
ngừng học hỏi, suy nghĩ để tìm ra các phương thức, những con đường thuận
lợi để đạt được mục đích đó. Nhưng làm thế nào để tạo được hứng thú học tập
cho học sinh, đối với giáo viên Tiểu học điều đó khá khó khăn vì học sinh
tiểu học có nhiều đặc điểm về tâm sinh lí cũng như nhận thức của các em rất
khác nhau. Đặc biệt đối với học sinh lớp 4, hứng thú của các em mang tính
bền vững hơn thì bồi dưỡng hứng thú học tập nói chung và hứng thú trong
học Tập làm văn nói riêng là điều vô cùng quan trọng.
thức lựa chọn cách viết sao cho ấn tượng. Như vậy, làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập là một việc cần thiết giúp nâng cao hứng thú học tập cho các em. 12 Biện pháp 2: Tạo ra hệ thống bài tập viết câu sinh động, giàu cảm xúc Trong văn miêu tả, thường xuất hiện các lớp từ có giá trị hình tượng, có giá trị biểu cảm như từ láy, các tính từ. Chúng là thế mạnh đặc trưng của Tiếng Việt và là phương tiện miêu tả hiệu quả. Từ láy luôn có giá trị gợi tả. Khi dạy học sinh viết văn miêu tả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng có hiệu quả các từ tượng thanh như: tiếng gió vi vu, lao xao, xào xạc,; tiếng mưa lộp bộp, tí tách, long bong, ; tiếng nước chảy róc rách, ào ào, tí tách,và thế giới âm thanh xung quanh các em tiếng gà gáy, tiếng chim hót, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng người cười nói, Đồng thời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng tốt các từ ngữ có giá trị tượng hình như: đỏ chon chót, đỏ mọng, sâu hun hút, xanh ngăn ngắt, sâu thăm thẳm, rộng mênh mông,Các tính từ chỉ màu sắc như: vàng óng, vàng hoe, vàng xuộm, vàng lịm, vàng ối,; xanh um, xanh thẳm, xanh trong, xanh lét,; đỏ ối, đỏ chon chót, đỏ hoe, tím ngắt, tím biếc, tím hoa cà, Các tính từ chỉ mùi vị: thơm ngát, thơm nức, thơm thoang thoảng, thơm ngan ngát,Thế giới âm thanh, hình tượng và màu sắc tạo cho bài văn miêu tả của các em thật hơn, sinh động hơn, đóng góp một phần không nhỏ làm nên vẻ đẹp bài văn. Nội dung dạy học Tập làm văn được chia ra rất nhiều cấp độ. Để giúp học sinh viết tốt, giáo viên phải giúp các em nắm vững các mạch kiến thức - kĩ năng, các kiến thức về từ vựng ( từ đơn, từ ghép, từ láy hay các từ vựng liên quan đến mỗi chủ điểm,) cho đến câu, đoạn văn, bài văn. Vì vậy giáo viên cần tạo ra một hệ thống bài tập viết câu giúp học sinh biết sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh để viết câu. Khi giáo viên tạo ra hệ thống bài tập cho học sinh cần tăng dần mức độ từ đễ đến khó. Bài tập 1: Chọn từ trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống sao cho thích hợp 13 Dạo ấy là . Nắng gay gắt. Cây cối thu mình,..dưới sự hun đốt giận dữ của mặt trời. Thế mà Chuối con vẫn xanh nhờ bầu sữa của mẹ. Chẳng mấy chốc, nó đã to lớn,.. ( mơn mở, héo quắt, phông phao, ngọt lành, mùa hạ ) Bài tập 2: Trong những câu văn dưới đây có những lỗi sai, em hãy sửa lại cho đúng. a) Nàng xuân huy hoàng đã gõ cửa mỗi nhà. b) Núi non tươi đẹp làm say đắm lòng người . c) Những tia nắng xuân đầu tiên ấy như những ngón tay hồng nhanh nhẹn gõ cửa đánh thức vạn vật, muôn loài bừng giấc. d) Cây cối xanh mơn mởn xào xạc trước gió. Bài tập 3: Viết tiếp từ ngữ hoặc câu văn vào chỗ trống để hoàn thành các đoạn văn sau a) Đàn gà trông thật Chúng kêu và chạy quanh .. Đôi mắt chúng .. Đôi chân của những chú gà . Cái mỏ của chúng giống như là . Trông đàn gà còn bé bỏng, tôi lại nghĩ .. b) Nhìn từ xa, cây chuối như .. Thân cây cao hơn đầu người, mọc thẳng, không có cành, chung quanh là mấy cây con đứng sát lại thành bụi trông như .. Gốc cây khá to, rễ bám chặt vào đất, thỉnh thoảng có mấy chiếc rễ con nổi lên, giống như Bên cạnh đó, từ một ý cho trước hay từ một câu đơn (chỉ có một cụm chủ ngữ, vị ngữ), giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập mở rộng câu bằng cách 14 thêm các thành phần phụ cho câu như: trạng ngữ, bổ ngữ, động từ, tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh,Sử dụng các hình ảnh, chi tiết sinh động biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, hoán dụ, phóng đại,làm cho cách diễn đạt câu văn, đoạn văn, thêm cụ thể, sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình. Bài tập luyện viết câu sẽ giúp học sinh có ý thức viết văn ngày càng chặt chẽ về hình thức, ngữ pháp đến nội dung chính xác, sinh động, giàu xúc cảm, Sau đây là một số bài tập viết câu văn sinh động: Bài tập 1: Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc bằng cách thêm biện pháp nghệ thuật: a) Gà mẹ xòe rộng đôi cánh ra b) Chiếc bảng đen xinh xắn c) Bông hoa xinh đẹp d) Mặt biển trong xanh e) Những đám mây trắng xóa f) Mùa xuân đã đến g) Hoa cau trắng muốt h) Hoa bưởi ngát dịu Bài tập 2: Viết tiếp đoạn mở bài cho bài văn a) Khi tả lại một cây ăn quả mà em yêu thích nhất, một bạn học sinh đã viết đoạn mở bài như sau: Khu vườn nhà em không rộng lắm nhưng cũng hội tụ khá nhiều loại cây. Cây nhãn là cây cao lớn nhất khu vườn. Tán nó xòe rộng, che mát cả một khoảng vườn lớn. Đứng cạnh cây nhãn là cây hồng xiêm. Hồng xiêm lá xanh um, quả ngọt lịm, [] 15 Em hãy giúp bạn hoàn thành đoạn mở bài trên. b) Với đề bài: Tả lại một con vật nuôi trong nhà Quanh ta mọi vật đều có ích. Chú gà trống gáy vang báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Chú chó là một người lính kiên trì và dũng cảm, [] c) Đề bài: Tả lại một loài hoa trong vườn nhà em. Mùa xuân đến, hoa trong vườn nhà em đua nhau khoe sắc. Hoa nào cũng đẹp [] Biện pháp 3: Cung cấp kiến thức để giúp các em thấy được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của cách dùng từ trong Tiếng việt. Ngoài việc dạy học sinh cách dùng từ, cách viết câu thì trong giảng dạy giáo viên cần cho học sinh nhận thấy vẻ đẹp của ngôn từ, sự phong phú của Tiếng việt. Không có con đường nào tốt hơn để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của học sinh với Tiếng Việt và văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của Tiếng việt. Hứng thú của học sinh cũng được khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết truyện, chẳng hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện không phải “ríu rít”, “thánh thót” mà “ngọt ngào”, “long lanh”, “chan chứa” thì mới gây ấn tượng. Hoa sầu riêng nở “tím ngát” chứ không phải chỉ “tím ngắt” hay “ngan ngát”. Như thế cả màu hoa, hương hoa đều được thể hiện chỉ qua một từ ngữ. Trong phân môn Tập làm văn, sự kì diệu của Tiếng việt thể hiện ở chỗ, với cùng một nội dung thông báo, song mỗi cách viết lại có một cách hiểu khác nhau. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh so sánh cách dùng từ - Chim họa mi hót líu lo trong vườn. ( thể hiện sự thuần túy ) 16 - Tiếng hót trong trẻo của chim họa mi làm rộn ràng không gian yên lặng của khu vườn. ( thể hiện sự trong sáng, vui tươi ) Như vậy, ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ngụ ý của người viết. Với mỗi một cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau. Trong các tiết Tập đọc, trước khi cho học sinh tìm hiểu nội dung bài giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh luyện đọc nhiều lần: đọc mẫu, luyện phát âm, luyện đọc đoạn, đọc toàn bài, đọc diễn cảm qua việc tiếp xúc với tác phẩm học sinh sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp trong cách dùng từ, cách miêu tả và cảm nhận của tác giả. Ví dụ 1: Trong bài Đường đi Sa Pa (TV4, tập 2) Ở đoạn thứ ba nhà văn Nguyễn Phan Hách tả lại phong cảnh ở Sa Pa như sau: Hôm sau chúng tôi đi Sa Pa. Phong cảnh ở đây thật đẹp. Thoắt cái, lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý. Tác giả sử dụng biện pháp điệp từ “ Thoắt cái” để người đọc có thể cảm nhận được hết như thay đổi nhanh chóng của thời tiết ở Sa Pa, cùng với đó là biện pháp đảo ngữ được sử dụng để nhấn mạnh vẻ đẹp đặc biệt một ngày có bốn mùa ở Sa Pa. Ví dụ 2: Trong bài Tập đọc “Sầu riêng” Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những cánh hoa. Tác giả quan sát và cảm nhận hết sức tinh tế. Mùi hương của hoa sầu riêng ngan ngát tỏa khắp một khu vườn như là sự hòa quyện giữa hương cau và 17 hương bưởi vừa có sự dịu mát, ngọt ngào vừa có sự ngào ngạt quyến rũ hết sức đặc biệt. Hay trong giờ Tập làm văn, giáo viên có thể cho học sinh đọc những đoạn văn hay. Ví dụ 1: Khi cho học sinh ôn tập về tả cây cối, giáo viên có thể cho học sinh đọc những đoạn văn hay tả các bộ phận của cây như đoạn văn tả cây bàng của nhà văn Đoàn Giỏi: “Có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng. Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè, lá lên thật dày, ánh sáng xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích. Khi lá bàng ngả sang màu lục, ấy là mùa thu. Sang đến những ngày cuối đông, mùa của lá rụng, nó lại có vẻ đẹp riêng. Những lá bàng mùa đông đỏ như đồng ấy, tôi có thể nhin cả ngày không chán. Năm nào tôi cũng chọn lấy mấy lá thật đẹp về phủ một lớp dầu mỏng, bày lên bàn viết. Bạn có biết nó gợi lên chất liệu gì không? Chất sơn mài ” Ví dụ 2: Đoạn văn tả quả cà chua rất sinh động của nhà văn Ngô Văn Phú: “ Đêm huyền diệu đã rủ hoa cà chua lặn theo vòng thời gian chuyển vần. Hoa biến đi để cây tạo ra những chùm quả nõn chung màu với cây với lá. Cà chua ra quả, xum xuê, chi chít, quả lớn quả bé vui mắt như đàn gà mẹ đông con. Quả một, quả chùm, quả sinh đôi, quả chùm ba, chùm bốn. Quả ở thân, quả leo nghich ngợm lên ngọn làm ỏe cả những nhánh to nhất. Nắng đến tạo vị thơm mát dịu dần trong quả. Mỗi quả cà chua chín là một mặt trời nhỏ hiền dịu. Cà chua thắp đèn lồng trong lùm cây nhỏ bé, gọi người đến hái. Màu đỏ là màu nhận ra sớm nhất. Những quả cà chua đầu mùa gieo sự náo nức cho mọi người.” 18 Ra hoa rồi kết quả. Đây là một sự phát triển tự nhiên của cây cối nhưng qua cái nhìn của nhà văn thì đây là một sự chuyển vần theo vòng thời gian hết sức huyền diệu. Việc thường xuyên cho học sinh tiếp xúc với những đoạn văn, bài văn hay, những mẫu hình sử dụng ngôn từ chuẩn mực như vậy sẽ làm các em cảm nhận được vẻ đẹp, sự phong phú muôn hình của Tiếng việt, sẽ học được cách sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, cách quan sát và miêu tả các sự vật, hiện tượng. Ngoài ra, các em còn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và tích lũy được kiến thức về các sự vật, hiện tượng của cuộc sống vận dụng linh hoạt khi tả hoặc kể. Từ đó, hình thành hứng thú học tập cho các em một cách tự nhiên và bền vững. Biện pháp 4: Đổi mới cách ra đề tập làm văn Với phân môn Tập làm văn, để kích thích hứng thú, sự tò mò của học sinh, ta có thể thay đổi cách ra đề. Bỏ cách ra đề chung chung, đơn điệu giáo viên nên ra đề rõ ràng, gần gũi với học sinh có tính ứng dụng liên hệ thực tế cao. Ví dụ 1:Với văn miêu tả con vật. Giáo viên có thể ra đề như sau: “ Mèo con cuộn tròn lăn lông lốc rồi chạm bịch vào gốc cau. “Rì rào, rì rào, con mèo nào mới về thế?” – Cây cau lắc lư chỏm lá tít trên cao hỏi xuống. “ Rì rào, rì rào, chú bé leo lên đây nào!” Mèo con ôm lấy thân cau, trèo nhanh thoăn thoắt. Nó ngứa vuốt cào cào thân cau sồn sột. “ Ấy, ấy! Chú làm xước cả mình tôi rồi. Để vuốt sắc mà bắt chuột chứ.” Em hãy tả lại hoạt động của chú mèo. Ví dụ 2: Với đề bài “ Tả lại loài hoa sen” GV có thể ra đề: 19 Sen hồng, sen trắng, sen vàng Chung hương thơm ngát khẽ khàng vương vương Lắng sây về chốn ngọn nguồn Từ miền bùn tối ủ hương dâng đời Từ ý thơ trên, em hãy tả lại hoa sen. Ví dụ 3: Khi kể lại câu chuyện theo vai nhân vật, Giáo viên có thể thay cách đề bài “Em hãy kể lại câu chuyện “Ở vương quốc Tương lai” theo nhân vật Tin-tin hoặc Mi-tin bằng cách mở bài mang tính gợi ý như sau: “Tin – tin và Mi – tin được một bà tiên giúp đỡ, đã vượt qua nhiều thử thách, đến nhiều xứ sở để tìm con Chim Xanh về chữa bệnh cho một bạn hàng xóm. Hai bạn đã tới được Vương quốc Tương lai – nơi có rất nhiều điều thú vị và được trò chuyện với những người bạn sắp ra đời. Em hãy đặt mình trong vai Tin – tin hoặc Mi - tin để kể lại câu chuyện trên và nói lên cảm nghĩ của mình khi được khám phá Vương quốc Tương Lai – nơi mà những ước mơ về cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc thành hiện thực”. Ví dụ 4: Hay khi muốn yêu cầu học sinh tả lại tấm lịch treo tường, giáo viên có thể ra đề: “Vào dịp năm mới, mỗi gia đình đều mua một tấm lịch vừa để trang trí nhà cửa, vừa để xem ngày tháng. Có nhiều tấm lịch treo tường khác nhau, mỗi tấm lịch là một tác phẩm nghệ thuật. Có tấm lịch nhiều tờ, mỗi tờ là một bức tranh đẹp: tranh phong cảnh, tranh hoa, tranh con vật, tranh tĩnh vật, Có tấm lịch bìa cứng màu đỏ tươi với những chữ Hán mạ vàng và cả hình ba ông Phúc, Lộc, Thọ Em hãy viết bài văn tả một tấm lịch treo tường mà em thích nhất.” 20 Những đề Tập làm văn đã cung cấp một số thông tin cơ bản, có yêu cầu rõ ràng sẽ giúp học sinh biết phải làm gì khi viết, không mơ hồ khi bắt tay vào làm bài cũng làm cho học sinh cảm thấy thú vị và tò mò hơn. Biện pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học... 1. Phương pháp quan sát Phương pháp quan sát là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các giác quan để quan sát đối với các đối tượng. Học sinh tiểu học thích trực quan, sinh động. Vì vậy, Khi vận dụng phương pháp này học sinh sẽ được tri giác các vật có thật, các tranh ảnh minh họa,... Điều này sẽ làm cho học sinh thích thú hơn khi được mắt thấy, tay sờ. Ví dụ: Khi dạy học sinh miêu tả đồ vật giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo các bước: Bước 1 : Lựa chọn đối tượng quan sát. Giáo viên hướng dẫn học sinh lựa chọn đối tượng miêu tả ( có thể là chiếc bàn học, quyển sách, quyển truyện hoặc là chiếc bút mực hay chú gấu bông) Bước 2 : Xác định mục đích quan sát. Quan sát các đặc điểm nổi bật của đồ vật để tìm ra điểm riêng biệt. Bước 3 : Tổ chức và hướng dẫn học sinh quan sát. Có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân hoặc quan sát theo nhóm 21 - Quan sát tổng thể: hình dáng, màu sắc, kích thước,rồi mới đi đến bộ phận, chi tiết. - Quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong. - So sánh với các đối tượng cùng loại ( mà các em đã biết ) để tìm ra những đặc điểm giống nhau và khác nhau. Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả quan sát. Trong văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Việc quan sát và vị trí quan sát tốt: xa hay gần, trong hay ngoài, ban ngày hay ban đêm, mùa xuân hay mùa hạ, sẽ giúp ta nắm được điểm riêng biệt của đối tượng, cảm nhận đối tượng một cách rõ ràng, cụ thể và tinh tế hơn. Quan sát đối tượng không chỉ bằng thị giác như các em vẫn nghĩ, mà phải biết huy động mọi giác quan: thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ, nắm), vị giác (nếm). Những đoạn văn hay và hấp dẫn là những thành công của tác giả trong việc dùng nhiều giác quan để quan sát. Tuy nhiên, tuỳ từng kiểu bài ta có những cách quan sát khác nhau: - Đối với kiểu bài tả đồ vật ta có thể quan sát theo trình tự:từ bao quát bên ngoài: mắt nhìn, tay sờ đến các bộ phận, quan sát điểm nổi bật của đồ vật - Nhưng đối với bài văn tả cây cối cần phải quan sát theo một trình tự: từ xa đến gần, từ bao quát đến bộ phận ( gốc cây, rễ cây, thân, cành, lá, hoa,.), quan sát nét khác biệt của cây đó với cây khác cùng loài Có thể quan sát theo từng thời kì phát triển của cây: từ cây non đến khi cây trưởng thành. - Còn đối với bài văn tả loài vật ta quan sát: ngoại hình ( hình dáng, bộ lông, màu sắc, những bộ phận nổi bật) rồi mới đến những thói quen sinh hoạt và những hoạt động của con vật. Mỗi sự vật có một đặc điểm riêng, chỉ khi nào ta nắm được đặc điểm riêng đó của sự vật thì khi viết ra mới có hình ảnh như thật. Thế nhưng, chỉ làm nổi 22 bật đặc điểm bên ngoài thôi chưa đủ, cần nêu được cái đặc sắc ẩn chứa bên trong sự vật đó và phải đưa được cảm xúc của mình vào bài văn. Quan sát luôn đi liền ghi chép. Phải ghi được những đặc điểm cơ bản: hình dạng, màu sắc, hoạt động, của đối tượng, hãy tìm ra và viết được những điều mới lạ để bài viết của mình có cái riêng, cái độc đáo. 2. Một số trò chơi tạo hứng thú học tập trong tiết Tập làm văn cho học sinh. Trong dạy học giáo viên cần tăng cường các hoạt động thực hành, tổ chức các trò chơi xem kẽ để củng cố, khắc sâu kiến thức cho các em. Trò chơi học tập không chỉ thay đổi hình thức học tập trở thành một hoạt động vui, hấp dẫn đối với học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác, tích cực mà còn giúp các em củng cố khắc sâu kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích lũy qua các hoạt động chơi. a) Trò chơi Sắm vai Khi học văn kể chuyện: Giáo viên tổ chức cho học sinh trò chơi hoạt dộng sắm vai. Đây là một trò chơi có nhiều lợi thế trong dạy các giờ Tập làm văn nói hay trong các bài văn kể chuyện. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai nhân vật nào đó nhằm thể hiện đúng, sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập này giúp không khí của tiết học trở nên vui vẻ, thích thú nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do những diễn viên “bất đắc dĩ” tạo nên. Đồng thời nó giúp học sinh được thực hành giao tiếp, được quan sát trực tiếp hoạt động nói với sự kết hợp sinh động của phương tiện âm thanh và các yếu tố phi ngôn ngữ do chính các em cảm nhận và thể hiện Ví dụ: Khi yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện “Gà Trống và Cáo” theo lời của nhân vật Cáo. 23 Trước khi viết bài văn, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh sắm vai kể lại đúng câu chuyện. Học sinh được nhập vai thành các nhân vật trong câu chuyện để thể hiện lại câu chuyện như một vở kịch nhỏ với khả năng sáng tạo của mình. Không những thế, khi được đặt vào hoàn cảnh của nhân vật các em sẽ hiểu rõ hơn hành động và suy nghĩ của nhân vật đó. Trong câu chuyện Cáo là nhân vật phản diện nhưng khi các em sắm vai Cáo các em lại hiểu được tâm tư, nỗi lòng của nhân vật. Phải chăng do quá đói nên con vật này mới âm mưu làm hại Gà Trống? Hay phải chăng Cáo cũng hết sức đáng thương khi bị muôn loài trong rừng xa lánh? Một cách nhìn nhận hoàn toàn mới thể hiện được sự đồng cảm. Không chỉ dừng lại là kể lại câu chuyện mà kiến thức còn được mở rộng hơn tưởng tượng một cái kết có hậu cho câu chuyện. b) Trò chơi “ Con số may mắn” Khi dạy học sinh miêu tả con vật. Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Con số may mắn Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị 6 bức tranh vẽ các con vật khác nhau. Sau mỗi bức tranh vẽ con vật khác nhau sẽ đánh số thứ tự từ 1 đến 6. Giáo viên chia lớp thành các nhóm học tập. Luật chơi: Mỗi nhóm cử đại diện học sinh nên chọn một con số may mắn cho nhóm của mình cũng là chọn con vật một cách ngẫu nhiên. Yêu cầu các nhóm hãy miêu tả lại các hoạt động của con vật đó. Thời gian : 8 phút Kết thúc trò chơi giáo viên cho từng nhóm đọc đoạn văn của mình. Các nhóm khác nghe và nhận xét, bình chọn nhóm có đoạn văn hay. c) Trò chơi “ Mắt xích” Khi yêu cầu học sinh hãy tưởng tượng và kể lại vắn tắt một câu chuyện có ba nhân vật: bà mẹ bị ốm, người con bằng tuổi em và một bà tiên. Giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh chơi trò chơi này 24 Chuẩn bị: Một khổ giấy A3, bút dạ Luật chơi: Mỗi học sinh tương ứng với mỗi mắt xích có nhiệm vụ viết một câu trên khổ giấy đã chuẩn theo yêu cầu của bài tập. Người viết sau phải viết làm sao cho logic với các câu đã được viết trước. Kết thúc trò chơi giáo viên cho học sinh đọc lại bài văn. Đây sẽ là một câu chuyện rất độc đáo và sáng tạo. 3. Vận dụng một số hình thức dạy học tích cực. 3.1 Tổ chức dạy học theo nhóm Trong giờ học Tập làm văn, tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm sẽ tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi. Đó là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, vốn hiểu biết của các em về cuộc sống để giải quyết nhiệm vụ học tập Với biện pháp này giáo viên có thể vận dụng các kĩ thuật dạy học tích
Tài liệu đính kèm: