Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn nhằm giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn nhằm giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả lớp 5

 Ngoài việc hướng dẫn các em tích lũy vốn văn học qua các ngữ liệu của các bài Luyện từ và câu thì như chúng ta đều biết việc học từ ngữ, ngữ pháp, việc luyện dùng từ đặt câu, viết đoạn văn cơ bản là giúp học sinh hình thành văn bản. Việc chú ý giúp học sinh viết câu văn hay, giàu hình ảnh gợi tả, gợi cảm là một việc làm rất quan trọng.

 Giúp học sinh Mở rộng vốn từ để có được hệ thống từ ngữ phong phú hơn. Thông qua hệ thống từ đồng nghĩa, từ gần, từ trái nghĩa, từ đồng âm. Thông qua biện pháp tạo từ ghép, láy

 Ví dụ: cho 2 từ “vui, buồn”, yêu cầu học sinh tìm những từ cùng nghĩa với 2 từ đã cho. Học sinh có thể tìm theo 2 nhóm:

- Vui: Phấn khởi, hồ hởi, hân hoan, khoan khoái, mừng rỡ, vui vẻ, hớn hở .

- Buồn: ủ rũ, rũ rượi, buồn rầu, ỉu xìu, buồn bã .

 

doc 16 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 2087Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn nhằm giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 viết:
 Tác giả Phillippe Hamon cho rằng: “Năng lực miêu tả là một năng lực đặc biệt phản ánh niềm đam mê sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó có những lối vẽ và những quan niệm riêng. Bức vẽ đó phải tác động vào đọc giả.”
 Cùng miêu tả về một đối tượng nhưng mỗi người sẽ có một cách miêu tả, một cách diễn đạt khác nhau. Cùng tả hoa sấu nhưng nhà văn Vân Long viết: “những chùm hoa nhỏ xíu, sắc chỉ hơi hoe vàng, chìm lẫn vào từng đọt lá non, lẫn với màu nắng dịu.” (Qua những mùa hoa – TV5 T2). Trong khi đó, tác giả Băng Sơn viết: “Từ những cành sấu non bật ra những chùm hoa trắng muốt, nhỏ như những chiếc chuông tí hon. Hoa sấu thơm nhẹ. Vị hoa chua chua thấm vào đầu lưỡi, tưởng như vị nắng non của mùa hè mới đến vừa đọng lại.” (Mùa hoa sấu – TV3 T1). Đặc biệt khi ta đọc những câu thơ sau của Lê Hồng Thiện sẽ thấy rõ hơn về cái nhìn khác nhau của mỗi người với cùng một sự vật, sự việc: 
“ Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui
Bà nhìn: như hạt cau phơi
Cháu cười: quả chuối vàng tươi ngoài vườn
Bố nhớ khi vượt Trường Sơn
 Trăng như cánh võng chập chờn trong mây.”
 (Trăng của mỗi người - Lê Hồng Thiện)
 Cùng nhìn mặt trăng, nhưng mỗi người, mỗi lứa tuổi, mỗi tâm trạng lại thấy hình ảnh trăng khác đi. Những hình ảnh được liên tưởng và so sánh khi miêu tả thường là hình ảnh gần gũi và gây ấn tượng nhiều nhất với người viết. Cho nên, người mẹ quanh năm vất vả với ruộng đồng thì thấy “trăng như lưỡi liềm”. Bà thấy trăng “như hạt cau phơi” để ăn trầu mỗi ngày. Còn cháu, hình ảnh ông trăng xa xôi kia thật giống “những quả chuối vàng tươi trong vườn” mà cháu vẫn thường rất thích ăn... Dấu ấn cá nhân được tạo ra nhờ vào những ấn tượng riêng đó.
 Tính sáng tạo của người viết sẽ tạo cho bài viết sự độc đáo và khác biệt, đồng thời tô điểm cho thế giới sự vật, hiện tượng trong văn miêu tả trở nên phong phú hơn, hấp dẫn hơn nhiều so với thực tế.
 c. Tính chân thực của bài văn miêu tả:
 Cho dù như trên đã nói, miêu tả cần phải cụ thể, sinh động, mang đậm tính sáng tạo của người viết, nhưng cũng cần vẫn phải đảm bảo tính chân thực. Trong khi miêu tả, dù người viết có sáng tạo bao nhiêu đi nữa cũng không được xa rời bản chất của đối tượng miêu tả. 
 Có thể nói, nhà văn Tô Hoài là một cây viết tinh tường nhất trong nghệ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả con vật. Bằng con mắt quan sát tỉ mỉ, khả năng bao quát sự vật, hiện tượng cũng như một vốn hiểu biết tường tận về thế giới loài vật, ông đã có những đoạn miêu tả con vật trong “Dế Mèn phiêu lưu kí” có thể xem là mẫu mực của những đoạn văn miêu tả. Ví như đoạn văn sau: “Chuồn Chuồn Chúa lúc nào cũng dữ dội, hùng hổ nhưng kỳ thực trông kỷ đôi mắt lại rất hiền. Chuồn Chuồn Ngô nhanh thoăn thoắt, Chuồn Chuồn ớt rực rỡ trong bộ quần áo đỏ chót giữa ngày hè chói lọi.Chuồn Chuồn Tư có đôi cánh kép vàng điểm đen.”. Từ dáng vẻ bên ngoài khác biệt của mỗi loại chuồn chuồn, đến nét đặc trưng trong hoạt động, thậm chí là cả sự đối lập giữa hình dáng và tính tình của chú chuồn chuồn Chúa đều được nhà văn lột tả.
 Như vậy, chúng ta cũng cần phải cho học sinh biết tầm quan trọng của việc quan sát mọi sự vật, hiện tượng quanh mình một cách tường tận để tìm ra nét đặc trưng nổi bật của sự vật, hiện tượng đó là rất cần thiết trong việc tích lũy vốn để viết văn hay. Trước mỗi tiết dạy Tập làm văn, giáo viên cần có yêu cầu và định hướng giúp học sinh quan sát và chuẩn bị bài trước ở nhà. Nếu học sinh không có sự chuẩn bị cẩn thận, chu đáo thì các em sẽ rất khó khăn để tìm ý, lập dàn ý, lựa chọn chi tiết miêu tả, và sẽ càng khó khăn hơn để các em có được những câu văn hay, hình ảnh đẹp.
 d. Tính hấp dẫn, truyền cảm:
 Đặc trưng này thực ra là được thể hiện qua tính cụ thể sinh động và sáng tạo của bài viết. Nó đòi hỏi người viết dù có miêu tả đối tượng nào ở góc độ nào cũng phải tạo được sự hấp dẫn, truyền cảm đối với người đọc. Muốn vậy, khi miêu tả các em phải thổi vào đó những xúc cảm, biến miêu tả trở nên có hồn, nếu không bài viết sẽ trở nên khô khan, lạnh lùng, sáo rỗng, không để lại ấn tượng gì với người đọc.
 Trong đoạn trích “Đường đi Sa Pa”, với nét vẽ tài hoa mà tinh tế, cách lặp từ “thoắt cái” đầy dụng ý, cùng với việc sử dụng nhiều từ ngữ gợi tả, từ láy và lặp cấu trúc câu (trạng ngữ - chủ ngữ - vị ngữ), tác giả đã khiến cho chúng ta, ngay trong phút chốc như cảm nhận được ngay cái thay đổi đột ngột mà thú vị trong sự thay đổi diệu kì của thiên nhiên Sa Pa: “Phong cảnh ở đây thật đẹp. Thoắt cái, lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.” 
 Bằng những nét vẽ cũng rất tinh tế, Thiên Lương với “Chim rừng Tây Nguyên” đã vẽ nên bức tranh sinh động, hấp dẫn về các loài chim, khiến cho các em học sinh lớp 2 vô cùng thích thú và cảm thấy thật gần gũi với thiên nhiên: “Chim đại bàng chân vàng mỏ đỏ đang chao lượn, bóng che rợp mặt đất. Mỗi lần đại bàng vỗ cánh lại phát ra những tiếng vi vu vi vút từ trên nền trời xanh thắm, giống như có hàng trăm chiếc đàn cùng hòa âm. Bầy thiên nga trắng muốt đang bơi lội. Những con chim kơ púc mình đỏ chót và nhỏ như quả ớt cố rướn cặp mỏ thanh mảnh của mình hót lên lanh lảnh nghe như tiếng sáo.” 
 Cũng viết về các loài chim, nhưng với biện pháp nhân hóa Nguyễn Kiên trong đoạn trích “Mùa xuân đến” lại khiến cho những chú chim như trở thành bạn của các bạn nhỏ: “Vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khiếu lắm điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm.”
 Thông qua việc phác họa những đặc trưng của văn miêu tả như thế sẽ giúp học sinh bước đầu tưởng tượng và phác họa được chân dung của sự vật, hiện tượng được miêu tả. Giúp các em biết tìm kiếm lựa chọn chi tiết, hình ảnh, biết sử dụng những biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, thổi hồn vào sự vật, hiện tượng miêu tả, biến chúng trở nên sống động, gần gủiđể các em thể hiện bản thân mình một cách thoải mái không gò bó và đầy tính sáng tạo.
 2. Hướng dẫn giúp học sinh tích lũy vốn văn học.
 a. Tích lũy vốn văn học qua các bài văn, đoạn văn: 
 Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học nói chung và Tiếng Việt lớp 5 nói riêng, có rất nhiều các bài Tập đọc đều có thể góp phần cung cấp vốn văn học, vốn hiểu biết về thực tế giúp học sinh làm văn. Ngay từ đầu năm học, khi học về kiểu bài tả cảnh, tôi đã có ý hướng dẫn giúp học sinh tìm hiểu cách dùng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật miêu tả thông qua các tiết Tập đọc. Ví dụ như khi dạy bài Tập đọc: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài, tôi đã lưu ý cho học sinh về cách dùng từ ngữ để miêu tả sự vật nhằm diễn đạt các sắc thái, mức độ khác nhau: 
Màu lúa chín dưới đồng vàng xuộm
Nắng nhạt ngả màu vàng hoe
Những chùm quả xoan vàng lịm
Từng chiếc lá mít vàng ối.
Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi.
Buồng chuối đốm quả chín vàng.
Những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống như đuôi áo, vạt áo.
Bụi mía vàng xọng, đốt ngầu phấn trắng.
Rơm và thóc vàng giòn.
Con gà, con chó cũng vàng mượt
 Khi học sinh học bài văn miêu tả, tôi tiếp tục hướng dẫn để các em học tập cách quan sát cảnh vật và miêu tả của bài tập đọc trên để vận dụng vào quan sát và miêu tả cánh đồng làng em.
 Bên cạnh việc giúp học sinh học tập và tích lũy vốn từ, tôi còn định hướng giúp các em hiểu những bài văn được miêu tả theo trình tự thời gian qua bài “Mùa thảo quả” hoặc theo trình tự không gian thông qua bài “Kì diệu rừng xanh”, “Phong cảnh đền Hùng”... Ngoài các bài Tập đọc thì trong các tiết Tập làm văn, Luyện từ và câu cũng có nhiều bài, đoạn văn miêu tả vô cùng đặc sắc, hấp dẫn, như: Bài “Qua những mùa hoa” - với sự diễn tả sự thay bổi biến hóa của màu sắc các loài hoa theo thời gian cùng với trình tự miêu tả theo và cách liên kết câu, đoạn hết sức chặt chẽ, tinh tế. Bài “Cô Chấm”, “Cây rơm” với sự quan sát vừa chân thực vừa mới lạ và cách dùng từ đặt câu đặc sắc.
 Một số đoạn văn khác cũng tương đối hay như “Hoàng hôn trên sông Hương”, “Rừng trưa”, “Chiều tối”, “Chợ Ta-sken” Ngoài việc kết hợp lưu ý học sinh của mình về cách miêu tả, quan sát, lựa chọn từ ngữ, cách diễn đạt hấp dẫn của những ngữ liệu kể trên thì tôi còn hướng dẫn cho các em viết lại những đoạn bài đó trong giờ tự học Tiếng Việt buổi chiều và giúp các em tìm cách vận dụng những hiểu biết có được vào bài viết của mình làm cho bài văn của các em hay hơn.
 Ngoài những ngữ liệu trong sách Tiếng Việt 5 kể trên, trong các tiết tự học Tiếng Việt buổi chiều tôi còn giúp các em tìm, viết lại và tìm hiểu thêm về cách miêu tả trong một số bài có nội dung miêu tả hay trong sách Tiếng Việt các em đã được học ở những lớp trước. Ví dụ như: Bài “Cô giáo tí hon” (TV3 - T1) - miêu tả một bạn nhỏ với những hình ảnh, hoạt động khá thú vị. Bài “Cửa Tùng” (TV 3- T1) - Bài văn miêu tả cảnh cửa biển với những câu văn đẹp mà người giáo viên nào cũng nhớ: “ Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển”. Một số bài văn khác cũng có cách miêu tả rất đặc sắc như bài “Sầu riêng”, “Hoa học trò”, ‘Đường đi Sa Pa”, “Con chuồn chuồn nước” (TV4 – T2). 
 b. Tích lũy kiến thức qua các tiết học Luyện từ và câu:
 Ngoài việc hướng dẫn các em tích lũy vốn văn học qua các ngữ liệu của các bài Luyện từ và câu thì như chúng ta đều biết việc học từ ngữ, ngữ pháp, việc luyện dùng từ đặt câu, viết đoạn văncơ bản là giúp học sinh hình thành văn bản. Việc chú ý giúp học sinh viết câu văn hay, giàu hình ảnh gợi tả, gợi cảm là một việc làm rất quan trọng.
 Giúp học sinh Mở rộng vốn từ để có được hệ thống từ ngữ phong phú hơn. Thông qua hệ thống từ đồng nghĩa, từ gần, từ trái nghĩa, từ đồng âm. Thông qua biện pháp tạo từ ghép, láy
 Ví dụ: cho 2 từ “vui, buồn”, yêu cầu học sinh tìm những từ cùng nghĩa với 2 từ đã cho. Học sinh có thể tìm theo 2 nhóm: 
Vui: Phấn khởi, hồ hởi, hân hoan, khoan khoái, mừng rỡ, vui vẻ, hớn hở.
Buồn: ủ rũ, rũ rượi, buồn rầu, ỉu xìu, buồn bã.
 Đưa ra tình huống để các em lựa chọn khi miêu tả: Chọn từ ngữ phù hợp để tả: Một em bé chạy tung tăng khoe với mọi người chiếc áo mới. Bố vừa hoàn thành xong công việc.Học sinh có thể đặt câu như:
Bé mặc chiếc áo mới, chạy tung tăng, hớn hở khoe với bà, với chị.
Xong việc, bố đứng dậy vươn vai, khoan khoái, nở nụ cười nhẹ nhõm.
 Mở rộng vốn từ theo trường nghĩa, ví dụ như bài Mở rộng vốn từ về Thiên nhiên - Tuần 9: 
 Sau khi khai thác tìm hiểu đoạn ngữ liệu phục vụ cho bài học, chúng ta có thể dành ít phút để giúp học sinh tích lũy kiến thức văn học bằng cách đưa ra các yêu cầu:
 Tìm từ ngữ chỉ đặc điểm bầu trời trong bài “Bầu trời mùa thu”. Học sinh nêu: xanh, xanh nhạt, xanh biếc, nóng, cháy lên như những tia sáng của ngọn lửa.
 Hoặc yêu cầu: Em thích những từ ngữ nào tả bầu trời trong mẫu chuyện trên? Những từ ngữ ấy thể hiện sự so sánh hay nhân hóa? Học sinh có thể nêu các ý như:
Bầu trời được rửa mặt sau cơn mưa. (nhân hóa)
Bầu trời xanh biếc.
Bầu trời dịu dàng. (nhân hóa)
Bầu trời buồn bã. (nhân hóa)
Nó nhớ tiếng chim hót của bầy chim sơn ca. (nhân hóa)
Bầu trời ghé sát mặt đất. (nhân hóa)
 Có thể giúp học sinh mở rộng vốn từ theo trường nghĩa liên tưởng thông qua các hình ảnh trong bài với yêu cầu: Bài “Bầu trời mùa thu” có đoạn viết: “Bầu trời ghé sát mặt đất. Mùa hè, nó cao hơn và có những con chim én bay liệng. Còn bây giờ chẳng có chim én nữa, vì thế bầu trời cúi xuống lắng nghe để tìm xem chim én đang ở trong bụi cây nào hay ở nơi nào.” Em hãy dựa theo các hình ảnh có trong đoạn văn về nhà viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 câu để tả bầu trời nơi em ở. 
 Những yêu cầu thế này giúp học sinh vận dụng được những kiến thức đã học để viết văn, đồng thời các em cũng tỏ ra rất hứng thú và phát huy tốt tính sáng tạo của bản thân.
 Đặc biệt trong các bài từ ngữ ôn tập theo chủ đề thì việc luyện tập dùng từ đặt câu, viết đoạn văn đã giúp học sinh thực hành sử dụng tốt vốn từ đã học. Qua đó giúp các em khắc sâu, ghi nhớ từ ngữ đã nắm được.
 Tôi cũng luôn chú trọng việc dạy kiến thức câu và cách liên kết câu đoạn cho học sinh để vận dụng tốt cho việc viết văn. Đó thật sự là mấu chốt để học sinh có được những câu văn hay, viết văn h lôgic chặt chẽ về ý và diễn đạt tốt hơn.
 c. Giúp học sinh tích lũy và viết câu văn hay, có hình ảnh gợi tả:
 Đó là việc hướng dẫn học sinh sử dụng vốn từ kết hợp với những kiến thức về câu ghép để học sinh viết câu văn hay hơn, không cụt ngũn, gợi tả, gợi cảm hơn. Theo tôi nhận thấy đa phần học sinh đều đã viết được những câu văn có tính thông báo, đủ chủ ngữ, vị ngữ, kèm theo trạng ngữ để diễn đạt được ý, nhưng ít em có thể viết được những câu văn có hình ảnh gợi tả, gợi cảm. Để dần giúp các em tiến tới viết câu văn hay, gợi tả, gơi cảm hơn, tôi đã đưa ra các nhóm từ ngữ khác nhau rồi hướng các em thay đổi vị trí hoặc thêm một số từ ngữ để cho câu văn khác đi nhưng vẫn đảm bảo nghĩa và đúng ngữ pháp. Ví dụ như đưa ra câu: Lan lững thững đi trên đường. Học sinh có thể viết lại như sau:
Trên đường, Lan đi lững thững.
Lững thững, Lan đi trên đường.
Lan đi trên đường lững thững.
 Hoặc đưa ra câu văn như sau: “Hôm nay trời đẹp”. Yêu cầu học sinh viết câu hay hơn nhưng vẫn đảm bảo về mặt ngữ pháp và đảm bảo nội dung thông báo. Các em có thể viết được những câu như: “Bầu trời hôm nay đẹp lắm, trong vắt không một gợn mây.” Hoặc “Hôm nay, bầu trời cao, trong xanh, những áng mây trắng đủ mọi hình thù lửng lơ trôi theo những làn gió nhẹ, thật là đẹp”.
 Khi dạy miêu tả ngôi trường, học sinh thường viết câu văn kiểu như: “Trường em học được xây cạnh đường.” Dựa vào thực tế quang cảnh trường mình, tôi hướng dẫn các em nhận xét thêm về cảnh trường, rồi so sánh nhân hóa lên để viết câu văn hay hơn. Học sinh đã viết được như sau: 
Trường em nằm trên một sườn đồi thoai thoải kề bên con đường làng ngoằn ngoèo.
Ngôi trường như một đoàn tàu khổng lồ có nhiều toa nằm ngay cạnh đường, hướng mặt ra cánh đồng xanh mượt.
 Việc giúp học sinh tự viết được những câu văn hay sinh động là cả một quá trình bồi dưỡng và tự nhận thức. Tuy nhiên, với học sinh Tiểu học, để các em có thể tự mình tư duy và tìm ra những hình ảnh đẹp, hấp dẫn và viết nên những câu văn hay là một thách thức lớn. Vì thế, tôi nhận thấy việc cung cấp và giúp các em tích lũy thật nhiều những câu văn hay, những hình ảnh đẹp trong văn thơ là điều tôi thấy rất tốt. Bản thân tôi cũng thường xuyên đọc những bài thơ, bài văn, câu chuyện,  của các tác giả viết cho thiếu nhi để bổ xung thêm vào sổ tích lũy những bài văn, bài thơ hay để cung cấp cho học sinh. Một trong những tác giả mà tôi rất tâm huyết với nghệ thuật miêu tả đặc sắc của ông đó là nhà văn Tô Hoài như trên tôi đã từng nói. Những đoạn văn giàu hình ảnh và cảm xúc của nhà văn thường được tôi lấy làm ví dụ cho học sinh. Một tác giả thơ của tuổi thơ đó là nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng được tôi rất yêu mến và thường trân trọng giới thiệu những tập thơ - những bài thơ hay của ông cho các bạn nhỏ. Hay như các bài thơ rất ngộ nghĩnh của nhà thơ Phạm Hổ cũng được các em rất thích. Ví dụ như bài: Ngủ rồi
 Gà mẹ hỏi gà con
 Đã ngủ chưa đấy hả?
 Cả đàn gà nhao nhao
 Ngủ cả rồi đấy ạ!
 Hoặc bài: Ngựa con
 Ngựa cha đi móng sắt
 Bật lửa đá dưới chân
 Ngựa con thấy kêu ầm
 “Bố ơi! Chân bố cháy!”
 Cách viết của nhà thơ Phạm Hổ rất tự nhiên, quen thuộc với lối nghĩ ngây thơ của trẻ và vì thế mà lại tạo nên sự ngộ nghĩnh, bất ngờ, thú vị cho bài thơ.
 Tuy nhiên, như chúng ta đều biết, thời lượng cho việc học trên lớp không nhiều nên việc giáo viên cung cấp thông tin, ngữ liệu giúp các em tích lũy vốn kiến thức Văn - Tiếng Việt là rất hạn chế. Vì thế, tôi cũng đã động viên, khuyến khích các em đọc sách đặc biệt tìm đọc những quyển sách bổ ích cho các em trong học tập. Bên cạnh đó Liên Đội trường tôi cũng đã xây dựng được một tủ sách nho nhỏ dùng chung cho các em học sinh, tạo điều kiện tốt để các em đọc nhiều hơn.
 3. Giúp học sinh hiểu giá trị của từ láy,biện pháp so sánh, nhân hóa trong viết văn miêu tả.
 Từ ngữ Việt Nam vô cùng phong phú đa dạng, tinh tế, giàu hình ảnh và có sức biểu cảm lớn. Trong Tiếng Việt, các lớp từ thể hiện giá trị hình tượng, giá trị biểu cảm rõ nhất là các từ láy, các từ ngữ sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa. Những từ ngữ này là phương tiện miêu tả hiệu quả nhất. Vì thế, trong khi dạy văn miêu tả, tôi đã luôn rất chú ý tới việc giúp học sinh hiểu và có ý thức sử dụng vào viết văn. Tuy nhiên việc giúp học sinh hiểu giá trị của những biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, đảo ngữ, điệp từ, điệp ngữ hoặc thay thế từ ngữ trong viết văn sẽ giúp bài văn sinh động hấp dẫn hơn là rất khó nhưng để các em có thể sử dụng thuần thục và tự nhiên khi miêu tả lại còn quan trọng và khó hơn.
 a. Giá trị của từ láy:
 Giá trị gợi tả của từ láy là khả năng làm cho người đọc, người nghe cảm thụ và hình dung được một cách cụ thể, tinh tế và sống động về màu sắc, âm thanh, hình ảnh của sự vật mà từ biểu thị. Giá trị gợi tả của từ láy chính là do mối quan hệ âm - nghĩa của từ tạo thành. Mối tương quan âm - nghĩa trong từ láy đã làm cho từ láy có sức gợi tả lớn, “không những gây nên những âm thanh uyển chuyển, mà còn gợi nên những hình tượng độc đáo” (Đỗ Hữu Châu). Giá trị biểu cảm của từ láy là khả năng diễn đạt thái độ, đánh giá tình cảm, cảm xúc của người nói đối với sự vật hay thuộc tính do từ biểu thị và cũng là khả năng khơi dậy ở người nghe một thái độ đánh giá, một tình cảm tương ứng. Chính vì vậy từ láy được sử dụng nhiều trong văn miêu tả.
 Giá trị biểu cảm, giá trị gợi tả của từ láy có khả năng tạo nên nhịp điệu, hình ảnh cho lời văn. Vẻ đẹp tự nhiên sinh động, gợi hình, gợi thanh của đối tượng miêu tả đều được tạo ra nhờ từ láy. Đúng như tác giả Nguyễn Hữu Châu đã nhận xét: “Mỗi từ láy là một nốt nhạc về âm thanh chứa đựng trong mình một bức tranh cụ thể của các giác quan các từ láy là những công cụ tạo hình đắc lực của nghệ thuật văn học.” Nhờ có lớp từ tượng hình, tượng thanh mà cảnh, người, vật đang gồng gánh hàng họ đi chợ được tả thật sinh động, gợi được không khí hối hả, nhộn nhịp của một “Buổi chợ trung du”: “Vai kĩu kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chíp chíp, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói léo xéo”. (Ngô Tất Tố).
 Trong khi dạy học sinh viết văn miêu tả, tôi thường hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng từ láy để miêu tả thiên nhiên, cảnh vật, con người. giàu sắc thái biểu hiện và mang dáng vẻ riêng. Đặc biệt chú ý khai thác giá trị tượng thanh của từ láy như: nước chảy róc rách, cuồn cuộngió thổi rì rào, lao xao, ào ào; giá trị tượng hình của từ láy như: xanh ngăn ngắt, đỏ chon chót, cao chót vót, thấp lè tè, tươi roi rói, thơm ngào ngạt, chạy lon ton, đi thong thả, nhanh thoăn thoắt Nhờ những từ láy gợi tả hình dáng, tính tình của con người mà những chiếc kim đồng hồ trong đoạn văn sau trở nên có tính cách: “Kim to nhất, chậm chạp nhất là kim giờ. Kim phút chỉ nhỏ hơn kim giờ một chút, chạy rất thong thả. Chiếc kim giây nhanh nhảu, lúc nào cũng hối hả quay quanh vòng tròn.” 
 Vậy đó, thế giới âm thanh, màu sắc, hình ảnh, tâm trạng có được nhờ từ láy sẽ góp phần làm cho bài văn miêu tả của các em trở nên cụ thể, chân thực, sinh động và giàu cảm xúc hơn.
 b. Giá trị của biện pháp so sánh:
 Sử dụng biện pháp so sánh trong viết văn thể hiện sự nhận thức chính xác, sâu sắc của người sử dụng và tăng cường sự nhận thức cho người đọc người nghe về sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Trên cơ sở của sự khám phá, phát hiện tinh tế về nét đặc thù tiêu biểu tương đồng giữa các đối tượng, so sánh làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. 
 Nhà văn Vũ Tú Nam khi miêu tả những quả gạo đã có cách so sánh rất lạ và thú vị: “Những bông hoa đỏ ngày nào đã trở thành những quả gạo múp míp, hai đầu thon vút như những con thoi. Sợi bông trong quả đầy dần, căng lên; những mảnh vỏ tách ra cho các múi bông nở đều, chín như nồi cơm chín đội vung mà cười trắng lóa. Cây

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN TLV L5.doc