Thể loại văn kể chuyện: Thể loại văn này thường có nhiều nhân vật, mỗi nhân vật mang một tính cách khác nhau, nên khi luyện đọc thường đọc diễn cảm với nhiều giọng đọc khác nhau như:
- Nhân vật là hiện thân của cái ác đọc với giọng hăm doạ, dữ dằn, hách dịch, vu vạ, thiếu thật thà, .
- Nhân vật là hiện thân của cái thiện đọc với giọng nhẹ nhàng, rõ ràng, lễ phép, thản nhiên.
- Giọng buồn đọc thong thả, chậm rãi, xúc động.
- Giọng của các anh hùng dân tộc đọc dứt khoát, rành mạch, hào hùng
- Người dẫn chuyện đọc với giọng chậm rãi, rõ ràng, khách quan, .
- Giọng đọc của người tri thức khoan thai, nhẹ nhàng, khiêm tốn và thể hiện thái độ tôn trọng, lễ phép
- Những người nông dân nghèo khổ đọc với giọng thật thà, phân trần, ngạc nhiên nhưng cương quyết.
Ví dụ khi dạy bài Mồ Côi xử kiện (Tiếng Việt 3 tập 1, trang 139) khi đọc mẫu toàn bài xong, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc bài với các giọng đọc như: Người dẫn chuyện đọc với giọng rõ ràng, khách quan. Giọng chủ quán vu vạ, thiếu thật thà. Giọng bác nông dân phân trần, thật thà (khi kể lại sự việc), ngạc nhiên, giãy nảy lên (khi nghe lời phán của Mồ Côi đòi bác phải trả tiền cho chủ quán). Giọng Mồ Côi nhẹ nhàng, thản nhiên (khi hỏi han chủ quán và bác nông dân); nghiêm nghị khi yêu cầu bác nông dân phải xóc bạc, chủ quán phải chú ý nghe), riêng lời phán cuối cùng rất oai, giấu một nụ cười hóm hỉnh. Sau khi hướng dẫn học sinh phân biệt giọng đọc của các nhân vật, đến phần luyện đọc lại tôi yêu cầu học sinh thi đọc diễn cảm một câu văn hoặc một đoạn văn theo cặp trước, sau đó tôi gắn tranh yêu cầu học sinh quan sát kĩ hình ảnh các nhân vật trong tranh như chủ quán, bác nông, Mồ Côi để tham gia vào trò chơi “Thi đọc diễn cảm câu văn, đoạn văn mà mình yêu thích” và nêu lí do vì sao lại thích.
ràng, lưu loát, trôi chảy văn bản Để học sinh học tốt phân môn Tập đọc, đòi hỏi các em trước hết phải đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu loát, trôi chảy văn bản. Vì khi đọc đúng, rõ ràng, lưu loát, trôi chảy văn bản thì các em đã phát âm được chính xác các từ ngữ trong văn bản, biết ngắt hơi, nghỉ hơi sau các dấu câu và giữa các cụm từ, từ đó giúp người nghe hiểu đúng nghĩa các từ ngữ trong văn bản. Ví dụ dạy bài Người mẹ (Tiếng Việt 3 tập 1, trang 29), khi đọc thi đoạn 4 theo nhóm bản thân hướng dẫn học sinh đọc với 3 giọng đọc khác nhau để thu hút người nghe chú ý vào bài học. Thấy bà, /Thần Chết ngạc nhiên, /hỏi:// (giọng đọc chậm, rõ ràng từng chữ) - Làm sao/ngươi có thể tìm đến tận nơi đây ?// (giọng Thần Chết ngạc nhiên) Bà mẹ trả lời:// (giọng đọc chậm, rõ ràng từng chữ) - Vì tôi là mẹ. // (giọng điềm đạm, khiêm tốn) Hãy trả con cho tôi! // (giọng dứt khoát) Như vậy, ngoài hình thức luyện đọc trên, bản thân còn dựa vào cách đọc riêng của từng bài để linh hoạt tổ chức các hoạt động đọc theo nhóm cho học sinh một cách phong phú, đa dạng như: đọc theo nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn; ...thi đọc theo nhóm, đọc đồng thanh một đoạn văn, một khổ thơ hoặc đọc cả bài. Khi đọc cần nhắc học sinh không đọc quá to mà đọc với giọng vừa phải để không làm ảnh hưởng nhiều đến nhóm khác. Bên cạnh đó, các em cũng cần chú ý lắng nghe, theo dõi vào sách giáo khoa để nhận xét bạn đọc. Quan trọng hơn là khi các em đã đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu loát, trôi chảy văn bản thì ở phần luyện đọc lại bản thân sẽ gọi những em đọc đúng, đọc rõ ràng, đọc lưu loát, trôi chảy văn bản đọc trước, sau đó yêu cầu các em giúp đỡ các bạn đọc chậm, đọc chưa rõ ràng tiến đến đọc đúng, đọc rõ ràng, đọc trôi chảy văn bản. Bước 4. Luyện đọc thầm, đọc hiểu Đọc thầm, đọc hiểu là kỹ năng đọc được chuyển từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ, đọc mấp máy môi đến đọc bằng mắt không mấp máy môi. Khi tổ chức đọc thầm, đọc hiểu muốn các em đọc thầm, đọc hiểu tốt thì giáo viên phải là người đọc mẫu chuẩn, hay, diễn cảm để lôi cuốn học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Vì vậy, đối với bất kì bài học nào, bản thân cũng đọc trước nhiều lần để nắm vững nội dung bài để giảng bài hay, lôi cuốn học sinh. Chính vì thế, khi học sinh đọc thầm, đọc hiểu tôi đã kiểm soát quá trình đọc của học sinh bằng cách xác định từng đoạn cho học sinh đọc. Khi học sinh đọc, tôi theo dõi và yêu cầu vài học sinh chỉ vào sách giáo khoa xem em đọc tới chữ nào để phát hiện những em không đọc thầm mà ngồi chơi. Ví dụ dạy bài Người con của Tây Nguyên (Tiếng Việt 3 tập 1, trang 103), tôi yêu cầu học sinh nhìn vào sách giáo khoa đọc thầm đoạn 3 của bài và dùng bút chì gạch dưới những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kông Hoa: “Một cái ảnh Bok Hồ vác cuốc đi làm rẫy, một bộ quần áo bằng lụa của Bok Hồ, một cây cờ có thêu chữ, một huân chương cho cả làng, một huân chương cho Núp”. Khi tôi kiểm tra nếu học sinh đã gạch đúng những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kông Hoa thì có nghĩa là học sinh đã đọc thầm tốt đoạn văn và nắm được nội dung đoạn đọc; còn nếu học sinh chưa gạch đúng những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kông Hoa thì có nghĩa là học sinh đọc thầm chưa tốt đoạn văn và như vậy học sinh sẽ không nắm được nội dung đoạn đọc. Lúc này tôi yêu cầu học sinh đọc thầm lại đoạn 3 để gạch đúng những từ chỉ sự vật mà Đại hội tặng cho dân làng Kông Hoa. Bên cạnh việc học sinh biết đọc thầm tốt để hiểu văn bản thì bản thân còn kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học phong phú, đa dạng nhằm giúp học sinh vừa nắm vững nội dung bài, vừa khắc sâu kiến thức và làm cho giờ học trở nên sinh động, thu hút học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động của môn học. Ví dụ dạy bài Nắng phương Nam (Tiếng Việt 3 tập 1, trang 94), tôi yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn một, nếu thấy học sinh đọc quá nhanh thì tôi đưa ra câu hỏi ở đoạn một để hỏi học sinh “Uyên và các bạn đi đâu, vào dịp nào?”. Nếu học sinh trả lời được có nghĩa là học sinh đã đọc thầm tốt đoạn văn đó, còn học sinh chưa trả lời được có nghĩa là học sinh đọc thầm chưa tốt đoạn văn đó. Khi đó tôi cần yêu cầu học sinh đọc thầm lại đoạn 1 và quan sát tranh để trả lời câu hỏi cho đúng. Với biện pháp như trên, bắt buộc học sinh phải chú ý đọc thầm đoạn văn cho tốt để trả lời đúng các câu hỏi về nội dung bài. Từ đó giúp các em tích cực, tự giác hơn trong học tập. Đối với học sinh đọc chậm, tôi luôn quan tâm, động viên, khuyến khích em kịp thời và thường dành những câu hỏi dễ, câu hỏi gợi mở để em có cơ hội trả lời giao lưu cùng các bạn, từ đó giúp các em ngày càng học tốt phân môn Tập đọc hơn. Bước 5. Luyện đọc diễn cảm Đọc diễn cảm tức là biết làm chủ ngữ điệu để bộc lộ cảm xúc đối với bài đọc. Đọc diễn cảm không những học sinh đã đạt được yêu cầu đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu loát, trôi chảy văn bản mà còn thể hiện được giọng đọc về cao độ, trường độ và kèm theo cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt để góp phần diễn tả nội dung bài. Qua thực tế giảng dạy, bản thân thường hướng dẫn học sinh lớp 3 đọc diễn cảm lồng vào tất cả các hoạt động của giờ học, nhưng ở bước luyện đọc lại thì học sinh được thể hiện giọng đọc diễn cảm nhiều hơn. Để học sinh luyện đọc diễn cảm tốt thì tôi dựa vào khả năng đọc của học sinh trong lớp; nhắc nhở học sinh đọc bài trước ở nhà và tự đọc theo ngữ điệu sao cho phù hợp với nội dung bài để khi đến lớp nghe cô đọc, bạn đọc cùng với sự hướng dẫn của giáo viên là các em nắm ngay được cách đọc diễn cảm đối với từng thể loại, khi đọc diễn cảm không đọc quá nhanh hay đọc quá chậm. Các hình thức luyện đọc diễn cảm tôi tổ chức như: đọc theo nhóm, đọc theo vai, đọc theo cặp, ...Thi đọc diễn cảm câu thơ, câu văn, khổ thơ, đoạn văn mà mình yêu thích dựa vào tranh ảnh minh họa hoặc dựa vào cách biểu cảm của học sinh thông qua cách thể hiện điệu bộ, cử chỉ phù hợp với nội dung câu văn, câu thơ, đoạn văn, khổ thơ trong bài học để học sinh thi đọc và nêu được lí do vì sao lại thích câu văn, câu thơ, đoạn văn, khổ thơ đó. Đọc diễn cảm còn giúp học sinh khắc sâu kiến thức, nắm chắc nội dung bài. Khi luyện đọc diễn cảm không yêu cầu học sinh đọc diễn cảm cả bài mà chỉ yêu cầu học sinh đọc diễn cảm một câu văn hoặc một đoạn văn, một câu thơ hoặc một khổ thơ, Vì vậy, bản thân đã tiến hành các bước hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm với từng thể loại như: Thể loại văn kể chuyện: Thể loại văn này thường có nhiều nhân vật, mỗi nhân vật mang một tính cách khác nhau, nên khi luyện đọc thường đọc diễn cảm với nhiều giọng đọc khác nhau như: - Nhân vật là hiện thân của cái ác đọc với giọng hăm doạ, dữ dằn, hách dịch, vu vạ, thiếu thật thà, ... - Nhân vật là hiện thân của cái thiện đọc với giọng nhẹ nhàng, rõ ràng, lễ phép, thản nhiên. - Giọng buồn đọc thong thả, chậm rãi, xúc động. - Giọng của các anh hùng dân tộc đọc dứt khoát, rành mạch, hào hùng - Người dẫn chuyện đọc với giọng chậm rãi, rõ ràng, khách quan, ... - Giọng đọc của người tri thức khoan thai, nhẹ nhàng, khiêm tốn và thể hiện thái độ tôn trọng, lễ phép - Những người nông dân nghèo khổ đọc với giọng thật thà, phân trần, ngạc nhiên nhưng cương quyết. Ví dụ khi dạy bài Mồ Côi xử kiện (Tiếng Việt 3 tập 1, trang 139) khi đọc mẫu toàn bài xong, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc bài với các giọng đọc như: Người dẫn chuyện đọc với giọng rõ ràng, khách quan. Giọng chủ quán vu vạ, thiếu thật thà. Giọng bác nông dân phân trần, thật thà (khi kể lại sự việc), ngạc nhiên, giãy nảy lên (khi nghe lời phán của Mồ Côi đòi bác phải trả tiền cho chủ quán). Giọng Mồ Côi nhẹ nhàng, thản nhiên (khi hỏi han chủ quán và bác nông dân); nghiêm nghị khi yêu cầu bác nông dân phải xóc bạc, chủ quán phải chú ý nghe), riêng lời phán cuối cùng rất oai, giấu một nụ cười hóm hỉnh. Sau khi hướng dẫn học sinh phân biệt giọng đọc của các nhân vật, đến phần luyện đọc lại tôi yêu cầu học sinh thi đọc diễn cảm một câu văn hoặc một đoạn văn theo cặp trước, sau đó tôi gắn tranh yêu cầu học sinh quan sát kĩ hình ảnh các nhân vật trong tranh như chủ quán, bác nông, Mồ Côi để tham gia vào trò chơi “Thi đọc diễn cảm câu văn, đoạn văn mà mình yêu thích” và nêu lí do vì sao lại thích. Một hôm, /có người chủ quán /đưa một bác nông dân đến công đường .// Chủ quán thưa: Bác này vào quán của tôi/hít hết mùi thơm lợn quay,/gà luộc,/vịt rán mà không trả tiền.//Nhờ ngài xét cho.// (giọng chủ quán vu vạ, thiếu thật thà) - Bác hãy đưa tiền đây,/ tôi phân xử cho!// (giọng Mồ Côi nhẹ nhàng, thản nhiên ) Nghe nói,/ bác nông dân giãy nảy:// - Tôi có đụng chạm gì đến thức ăn trong quán đâu/ mà phải trả tiền?// (giọng bác nông dân ngạc nhiên, giãy nảy lên ) - Nhưng tôi chỉ có hai đồng.// - Bác hãy xóc lên cho đủ mười lần.// Còn ông chủ quán,/ ông hãy chịu khó mà nghe.// (giọng Mồ Côi thản nhiên, nghiêm nghị khi yêu cầu bác nông dân phải xóc bạc, chủ quán phải chú ý nghe). Mồ Côi phán: - Bác này đã bồi thường cho chủ quán đủ số tiền.// Một bên/ “hít mùi thịt”,/ một bên/ “nghe tiếng bạc”.// thế là công bằng.// (giọng Mồ Côi oai phong, giấu một nụ cười hóm hỉnh) Nói xong,/ Mồ côi trả hai đồng bạc cho bác nông dân/ rồi tuyên bố kết thúc phiên xử.// (giọng người dẫn chuyện khách quan, vui vẻ) Sau khi học sinh tham gia thi đọc xong, tôi hỏi học sinh “Em thích nhất câu nói của nhân vật nào trong bài? Vì sao?” rồi yêu cầu lớp nhận xét cách thể hiện giọng đọc diễn cảm của từng bạn về các nhân vật. Sau đó gọi một nhóm học sinh khác thi đọc diễn cảm và yêu cầu học sinh phối hợp giọng đọc với cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, điệu bộ để phù hợp nội dung từng tranh của đoạn đọc. Cuối cùng tôi chốt thêm một số cách đọc và tuyên dương những học sinh có giọng đọc hay, khuyến khích những học sinh này giúp đỡ bạn đọc chậm để bạn đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu loát, trôi chảy văn bản và từng bước thể hiện được giọng đọc diễn cảm ở một số câu văn ngắn và dễ đọc. Từ cách luyện đọc diễn cảm trên, đã giúp học sinh vận dụng vào tiết Kể chuyện rất tốt. Khi kể chuyện, các em đã không cần nhìn tranh mà tái hiện được nội dung câu chuyện một cách sinh động, hấp dẫn và thu hút các bạn tích cực tham gia vào các hoạt động của
Tài liệu đính kèm: