Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, việc các em được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp các mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp tôi phụ trách. Hàng ngày, tôi yêu cầu các em trong lớp theo dõi và báo cáo lại cho giáo viên, trong tiết sinh hoạt cuối tuần, cuối tháng cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt, các bạn được nhiều điểm 10. Mỗi năm học, tổng kết 4 lần vào các dịp nhà trường phát động các phong trào thi đua lớn như: thi đua chào mừng ngày 20/11, ngày 8/3, vào dịp cuối học kỳ I và cuối năm, khen thưởng cho những em chăm ngoan, đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Bên cạnh đó, Đội cũng có quà cho các em xuất sắc nhất ở mỗi lớp sau những đợt thi đua. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần thưởng đầy ý nghĩa. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
áo khác cũng như ý kiến của gia đình các em và có đánh giá chung như sau: SỐ HS KỸ NĂNG TỐT CÓ KỸ NĂNG KỸ NĂNG CHƯA TỐT SL TL SL TL SL TL 20 4 20 9 45 7 35 2. Thực trạng giáo viên: Về phía giáo viên, thông qua tiếp xúc chia sẻ kinh nghiệm với nhiều đồng chí giáo viên là bạn bè đồng nghiệp ở nhiều trường, tôi được biết: có rất nhiều giáo viên còn lúng túng về vấn đề giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh: cả về nội dung lẫn biện pháp. Do không có giáo trình và thời lượng cụ thể nên việc rèn kỹ năng sống qua các môn học thực sự là gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Có khi việc đó chỉ làm qua loa cho có, cũng có khi lại quá lạm dụng ăn lấn sang cả thời gian của việc dạy học. Hơn nữa, kỹ năng sống được hình thành qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Nó là kết quả thu được sau một quá trình trải nghiệm. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. Sự tác động của giáo viên dù rất quan trọng nhưng vẫn chỉ mang tính định hướng, lựa chọn làm gì, làm như thế nào quyết định cuối cùng vẫn là ở các em. 3. Thực trạng nhà trường: Năm học vừa qua, trường Tiểu học Hợp Tiến chỉ học 7 buổi/tuần. Thời gian học trên lớp chủ yếu là học các môn học, việc không có các tiết tự học thật sự ảnh hưởng rất lớn tới việc rèn kỹ năng sống cho các em. Kỹ năng sống được hình thành tự nhiên và hiệu quả trong những môi trường hoạt động cụ thể chứ không từ những bài giảng trên lớp. Chỉ từ các bài giảng, các em không thể tự hình thành các kỹ năng sống cho mình mà chỉ có thể hình dung chung về nó. Như ông Nguyễn Anh Tuấn, phó trưởng Ban thanh niên trường học đã nói: ”Học kỹ năng sống cũng giống như học bơi, muốn biết bơi thì phải xuống nước tập bơi chứ không thể đứng trên bờ mà biết được.” Nhà trường không có các tiết dành cho hoạt động ngoài giờ lên lớp, các lớp không có tiết tự học gây khó khăn trong việc tổ chức rèn kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên, nhà trường đã chỉ đạo Đội TNTP, cụ thể là tổng phụ trách Đội lồng ghép thêm nhiều hoạt động bổ ích vào các ngày lễ, hoạt động giữa giờ cũng như 15 phút đầu giờ các buổi học. Việc giám sát thường xuyên của Đội Cờ đỏ cũng giúp các em điều chỉnh kỹ năng sống của bản thân theo hướng tích cực hơn. Chuyên môn nhà trường cũng đã có những buổi sinh hoạt nghiêm túc để nhìn nhận cũng như định hướng một số nội dung, biện pháp để rèn kỹ năng sống cho học sinh. Công tác giáo dục kỹ năng sống thật sự được Ban giám hiệu nhà trường và toàn thể cán bộ giáo viên quan tâm. Ngoài giờ chuyên môn, bản thân các giáo viên cũng có thường xuyên trao đổi để có những biện pháp giáo dục phù hợp nhất. Có thể khẳng định, trong nhà trường chúng tôi, việc giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh đã trở thành một việc làm thường xuyên. III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN: Từ những thực tiễn đã nêu trên tôi đã tìm tòi và áp dụng một số biện pháp cụ thể sau để thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh: 1. Tạo môi trường học tập thân thiện, tích cực: a. Giáo viên luôn gần gũi học sinh, là một tấm gương mẫu mực cho các em noi theo: Ngay từ khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa các thành viên trong lớp, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của các em. Bên cạnh đó tôi cũng cho các em biết rõ những mong muốn của mình đối với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân thiện - Nơi " Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em ". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Chúng ta cần phải tạo cơ hội để các em tự nói nhiều hơn, nói những điều các em nghĩ và các em thật sự muốn. Suốt một thời gian dài sau đó, tôi thường xuyên tìm hiểu, quan sát mọi cử chỉ, hành động, lời nói, thái độ của các em, không chỉ những biểu hiện trong học tập mà ngay cả trong khi các em chơi, trò chuyện với bạn. Chú ý tới tất cả các biểu hiện như: thái độ trước những bài khó, cách các em lắng nghe, trả lời, cách các em bộc lộ suy nghĩ tình cảm, sự vui mừng khi hoàn thành bài hay được khen, các em có dễ hòa đồng không, có kiên nhẫn không hay thường nổi nóng, các em có linh hoạt sáng tạo không. Việc làm này sẽ giúp chúng ta nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay dễ mất kiểm soát Cũng từ đó, nếu các em có những biểu hiện chưa phù hợp hoặc gặp khó khăn, chúng ta có thể uốn nắn, giúp đỡ các em. Việc này thực ra rất đơn giản nhưng yêu cầu chúng ta phải kiên trì và tâm huyết. Như đã nói, đặc điểm tâm lý của các em là hiếu động và thích bắt trước, ở trường thầy cô với các em lại luôn là hình mẫu lý tưởng nhất, chuẩn mực nhất. Mọi vấn đề thầy cô giải quyết, mọi việc thầy cô làm, mọi điều thầy cô nói với các em luôn là đúng. Đặc biệt với học sinh lớp 1, các em nghe, làm theo thầy cô còn hơn là ông bà, cha mẹ. Các em thường rất hay bắt chước thầy cô của mình, từ nét chữ, lới nói đến cả cử chỉ điệu bộ và nhất là cách ứng xử của cô trước các tình huống. Vì thế, bản thân giáo viên cần luôn chú ý tới mọi cử chỉ, hành động. Luôn mẫu mực, cư xử hòa nhã, quan tâm và dạy bảo các em tận tình. Giáo viên cũng cần phải biết xin lỗi, nếu bạn nhầm lẫn, hãy xin lỗi các em và sửa lại. Trong mọi tình huống, giáo viên luôn cần là tấm gương để học sinh noi theo. Hãy luôn cho các em cảm giác an toàn và tin tưởng. b. Giáo viên thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học: Bản thân tôi luôn chú ý tới việc thường xuyên đổi mới phương pháp và hình thức dạy học hướng tới nhằm phát huy tính tích cực của học sinh gắn liền với thực tiến cuộc sống. ( Ví dụ: sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp trò chơi học tập...; biết lựa chọn phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.); qua các hoạt động học tập, học sinh được rèn các kỹ năng phân tích, tổng hợp, tư duy sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác trong nhóm, kỹ năng xử lý tình huống,... Trong giờ học, giáo viên cần luôn tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện, cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em. Động viên khuyến khích các em bày tỏ quan điểm cá nhân, độc lập trong tư duy như: nói câu khác với bạn, viết lời giải theo trình tự khác với hướng dẫn chung, xử lý một tình huống theo những cách khác nhau c. Thường xuyên động viên, khen thưởng: Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, việc các em được khen trước bạn bè, được cô giáo động viên kịp thời đúng lúc sẽ là động lực rất lớn giúp các mạnh dạn, tự tin và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp tôi phụ trách. Hàng ngày, tôi yêu cầu các em trong lớp theo dõi và báo cáo lại cho giáo viên, trong tiết sinh hoạt cuối tuần, cuối tháng cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt, các bạn được nhiều điểm 10. Mỗi năm học, tổng kết 4 lần vào các dịp nhà trường phát động các phong trào thi đua lớn như: thi đua chào mừng ngày 20/11, ngày 8/3, vào dịp cuối học kỳ I và cuối năm, khen thưởng cho những em chăm ngoan, đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Bên cạnh đó, Đội cũng có quà cho các em xuất sắc nhất ở mỗi lớp sau những đợt thi đua. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần thưởng đầy ý nghĩa. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. d. Hướng học sinh tới các hoạt động tập thể của lớp, của trường, của Đội TNTP: Như đã nói, kỹ năng sống không thể được hình thành chỉ trên lý thuyết, cần phải có quá trình thực hành, phải trải qua thực tế, các kỹ năng sẽ dần hình thành và thành thói quen sống. Tham gia các hoạt động tập thể là cơ hội tốt để học sinh trải nghiệm. Đó là qua các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp của trường, lớp: Nhà trường tổ chức tuyên truyền, vận động tham gia qua các hoạt động: diễn văn nghệ, chơi trò chơi dân gian, hát dân ca, tham gia đóng tiểu phẩm trong buổi hội thảo về kỹ năng sống do Phòng Giáo dục tổ chức Khuyến khích học sinh tham gia các buổi vệ sinh sân trường, chăm sóc bồn hoa cây cảnh. Qua đó, học sinh được rèn các kỹ năng lao động, ý thức trách nhiệm với công việc, được hoạt động trong nhóm. Học sinh còn được rèn kỹ năng sống thông qua những buổi tuyên truyền về phòng tránh tai nạn giao thông, tai nạn học đường, nói không với ma túy và các tệ nạn xã hội. Phải phòng ngừa, ngăn chặn những tệ nạn xã hội trong học sinh là điều ai cũng nhận thấy được, nhưng vấn đề là ở sự quyết tâm cao, là các biện pháp thiết thực, cụ thể và hiệu quả từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà trường và rộng ra hơn nữa là ý thức trách nhiệm của toàn xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội hãy cùng nhau góp sức để các em vững tin hơn trong cuộc sống . Rèn kỹ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp hàng ngày. Ví dụ: Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy sớm, có tác phong nhanh nhẹn (rèn kỹ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu); Yêu cầu xếp hàng ra vào lớp thẳng hàng, ngay ngắn, không xô đẩy nhau trong hàng (rèn cho học sinh kỹ năng kiềm chế bản thân, kỹ năng vận động, gây ảnh hưởng); Yêu cầu học sinh đến lớp phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập ( rèn cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, xây dựng kế hoạch). Làm tốt công tác tổ chức chủ nhiệm lớp, thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp trưởng, tổ trưởng, không nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng. Xây dựng mô hình lớp tự quản: Với học sinh lớp 1, để các em có thể tự quản và tự điều hành mọi hoạt động lớp ngoài giờ học, không có sự can thiệp của giáo viên là việc làm tương đối khó khăn hơn so với các lớp trên. Tuy nhiên, chúng ta có thể hướng dẫn các em làm quen dần. Có thể để cho các em tự thảo luận và đề ra một số nội quy lớp học. Trong các tiết hoạt động tập thể, chú ý cho các em tự nhận xét rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng cho tuần mới. Cho dù là các ý kiến của các em sẽ không thật sự đáp ứng được yêu cầu của các em nhưng hãy cứ để các em tự làm và nếu cần thiết chúng ta có thể gợi ý hoặc điều chỉnh cho phù hợp hơn. Tránh tình trạng giáo viên áp đặt mọi suy nghĩ, hành động lên các em; luôn yêu cầu các em phải làm theo thầy cô. Nếu các em thấy được việc cần làm là đúng, là cần thiết và các em tự nguyện làm, mong muốn được làm thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn rất nhiều. Các hoạt động tập thể sẽ giúp học sinh không chỉ có được nhận thức đúng đắn mà giúp các em trải qua những tình huống thực tế. Các em được nói, được làm, được lập kế hoạch, được tự đánh giá rút kinh nghiệm. Kỹ năng sống dần được hình thành từ đây. 2. Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học. Do tình hình thực tiễn hiện nay không có chương trình cũng như tiết học dành riêng cho việc giáo dục kỹ năng sống, nên việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống qua dạy học các môn học là điều cần thiết. Với chương trình dạy học lớp 1, mọi kiến thức, kỹ năng học tập mà các em có được đều có thể xem như là các kỹ năng sống căn bản và cần thiết. Ta có thể giúp các em rèn kỹ năng sống qua tất cả các môn học như: Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội a. Rèn kỹ năng sống của học sinh thông qua môn Tiếng Việt Chúng ta đều biết, ngôn ngữ là công cụ của tư duy và giao tiếp. Theo học giả người Mỹ Kinixti thì: "Sự Thành công của mỗi người chỉ có 15% là dựa vào kỹ thuật chuyên ngành, còn 85% là dựa vào những quan hệ giao tiếp và tài năng xử thế của người đó" Trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời” Mặt khác việc giao tiếp, ứng xửa khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực: “Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói” Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói” Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kỹ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mọi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả không? Ở môn Tiếng Việt, tất cả các bài Tập đọc đều có phần luyện nói theo chủ đề như: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn; Vâng lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp của cha mẹ; Những người bạn tốt; Sức khỏe là vốn quý nhất. Các tình huống giao tiếp cụ thể được lồng ghép trong quá trình dạy, học. Tôi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Tôi thường xuyên tổ chức cho các em luyện nói theo nhóm và luân phiên các thành viên của các nhóm để nhằm mục đích giúp tất cả các em có thể giao tiếp trực tiếp với nhau, Khuyến khích các em còn nhút nhát nói nhiều hơn, bước đầu là nói một, hai câu ngắn sau đó dần dần hướng dẫn các em nói nhiều hơn, diễn đạt suy nghĩ cụ thể, rõ ràng và thuyết phục hơn. Bên cạnh đó không quên hướng dẫn cho các em luyện nghe. Các em cần chú ý lắng nghe cô và các bạn, suy nghĩ về những thông tin được đưa ra là đúng hay sai, mình có như thế không, mình sẽ nói thế nào về vấn đề ấy Sau khi học sinh trình bày bài nói, tôi thường hỏi một số câu hỏi nhỏ để kiểm nghiệm mức độ nhận thức vấn đề nghe được của các em, sau thời gian quen dần, tôi định hướng cho các em cách hỏi lẫn nhau để kiểm tra thông tin cũng như khích lệ bạn. Ví dụ khi dạy chủ đề nói: "Bé Tự giới thiệu", tôi đưa ra nội dung: “Em hãy nói về bản thân em và làm quen với mọi người”. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, tôi tổ chức cho các em đứng thành vòng tròn tự giới thiệu về tên và sở thích của từng em và làm quen với các bạn xung quanh. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi nói về mình nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hoà đồng, thân thiện các em đã thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng câu nói chắc gọn: “Mình tên là gì, mình học ở đâu, mình thích và không thích điều gì....” Trong khi dạy Tập đọc, hoạt động nói câu có tiếng chứa vần ôn cũng được tôi rất xem trọng. Dù đó không phải là giao tiếp trong tình huống cụ thể và mỗi em chỉ nói một câu nhưng nó giữ vai trò rèn luyện cho học sinh nói đủ câu, diễn đạt tường minh và dần đến nói câu hay. Khi các em nói, chúng ta có thể kịp thời điều chỉnh ngay những lỗi đặt câu của các em. Hoạt động luyện nói cuối bài đọc được tổ chức như một cuộc nói chuyện nhỏ giữa các bạn với nhau. Ví như khi học sinh nói về chủ đề: Mai sau khôn lớn, giúp đỡ cha mẹ, bạn có hay làm nũng bố mẹ không Sau khi đưa gợi ý về nội dung và cách nói, tôi chia lớp thành các nhóm 4 để các em tự kể lại với các bạn. Các em thường tỏ ra rất hào hứng mỗi khi được nói cho bạn mình nghe. Có nhiều khi do quá phấn kích, có em nói to hoặc nói rất nhiều, cần phải theo dõi và uốn nắn các em ngay. Hoạt động luyện nói cho học sinh lớp 1 là một nội dung rèn kỹ năng sống cụ thể và thiết thực nhất trong chương trình dạy học. Làm tốt việc này, chúng ta đã giúp các em rèn luyện rất nhiều các kỹ năng như: kỹ năng nhận thức, tư duy, giao tiếp, tự khẳng định, tự tin, hợp tác, làm việc nhóm, bày tỏ cũng như kiềm chế cảm xúc. Không chỉ rèn kỹ năng sống cho học sinh qua hoạt động luyện nói mà ta có thể rèn kỹ năng sống cho các em qua việc dạy Tập đọc, Kể chuyện. Như khi dạy các bài Tập đọc: Mèo con đi học, ta có thể giúp các em rèn kĩ năng tự nhận thức, xác định giá trị, phê phán, vượt qua khó khăn Hoặc khi kể các câu chuyện: Rùa và Thỏ, Cô bé trùm khăn đỏ, Bông hoa cúc trắng, Dê con nghe lời mẹ các em được giáo dục và rèn có hiệu quả các kỹ năng như tự nhận thức, tư duy phê phán, sự cảm thông, tự tin, bảo vệ bản thân, vượt qua khó khăn đạt mục tiêu Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu bản thân là những bài học như khám phá bản thân, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm. b. Rèn kỹ năng sống của học sinh thông qua môn Đạo đức: Dạy học đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và quyền trẻ em trong các tình huống đơn giản cụ thể của cuộc sống hàng ngày. Nội dung của môn học đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục trách nhiệm bổn phận của học sinh. Hơn nữa môn đạo đức không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và môi trường tự nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản thân mình. Việc bồi dưỡng hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức không phải đó là một bài mẫu có sẵn, áp đặt, khuôn mẫu để học sinh thực hiện theo. Mà nhiệm vụ của môn Đạo đức lớp Một nói riêng, môn Đạo đức ở Tiểu học nói chung qua mỗi bài là một chuẩn mực hành vi đạo đức giúp các em nắm được những điều sơ đẳng của phép ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Qua bài dạy của giáo viên các em nắm được nội dung và ý nghĩa của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các hoạt động và trong các mối quan hệ xã hội Dạy - học Đạo đức chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình dạy học. Dạy - học Đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm và thói quen đạo đức, tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức mới, kỹ năng mới. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ đặc điểm, nội dung từng bài học, lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học phù hợp và xác định các kỹ năng sống cần rèn luyện cho học sinh. Bài 1: Em là học sinh lớp Một rèn kỹ năng tự giới thiệu họ tên, quyền được đi học của mình, kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống. Bài 2: Gọn gàng sạch sẽ: Rèn kỹ năng biết ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, biết gữ vệ sinh cá nhân đầu tóc quần áo gọn gàng trong mọi lúc mọi nơi. Lựa chọn các phương pháp dạy thích hợp với từng bài dạy gây hứng thú học tập cho học sinh. Không rập khuôn máy móc, không áp đặt tình huống, cần sáng tạo theo từng tiết dạy. Qua từng bài tập trò chơi, kể chuyện theo tranh, quan sát tranh và trả lời câu hỏi, đánh giá và tự đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, các bài tập tô màu, đóng vai theo tranh theo tình huống v.v ... Học sinh tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới, kỹ năng mới giáo viên kết luận hành vi đạo đức đúng. Dạy bài: "Cảm ơn, xin lỗi " , có thể tổ chức cho các em trao đổi : - Em nói lời cảm ơn, xin lỗi khi nào? - Bạn đã cảm ơn em về điều gì? Em cảm thấy như thế nào khi được bạn cảm ơn, xin lỗi?... qua đó các em s
Tài liệu đính kèm: