A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người nhiều tiện ích, sự
thoải mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt là đối với con trẻ.
Điều này đòi hỏi mỗi trẻ đều phải có những kỹ năng để xử lý cũng như bảo vệ
chính bản thân mình. Ngay khi trẻ sinh ra, bố mẹ đã cố gắng tạo ra môi trường
an toàn cho trẻ. Giai đoạn trẻ bước đi thành thạo và làm chủ được những hoạt
động của mình: chạy, nhảy,.việc hướng cho trẻ những việc an toàn và không an
toàn bắt đầu hình thành. Theo thời gian, những kỹ năng ấy ngày càng nhiều
thêm bởi tính tò mò và khả năng làm chủ hành động của trẻ. Bất cứ một sự vật
nào hiện ra đều trở thành một đề tài thu hút đối với trẻ. Đó được coi là cơ hội để
mở rộng kiến thức nhưng đồng thời cũng có thể là mối nguy hại khôn lường đối
với trẻ. Việc trang bị cho trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có thể an
toàn hơn và tự tin hơn để khám phá cuộc sống muôn màu.
Việc giáo dục trẻ trẻ nhận biết và phòng tránh nguy cơ không an toàn cho
trẻ là một vấn đề đang được ngành Giáo dục mầm non rất quan tâm. Giáo dục
trẻ, giúp trẻ nhận biết các nguy cơ không an toàn và hướng dẫn trẻ kỹ năng
phòng tránh cũng là điều vô cùng cần thiết để giúp trẻ có kinh nghiệm sống để
tự bảo vệ mình. Giáo dục trẻ nhận biết phòng tránh nguy cơ không an toàn cho
trẻ nên ở mọi lúc, mọi nơi, không những ở trường mà cả ở nhà. Bên cạnh đó ở
giai đoạn 3- 4 tuổi trẻ còn trải qua thời kì “khủng hoảng tuổi lên 3”, trẻ bắt đầu
ý thức về những khả năng của chính mình và nảy sinh nguyện vọng mình làm
nhiều thứ để chứng tỏ là mình làm đúng và làm được. Trẻ 3 - 4 tuổi kĩ năng
nhận biết và phòng tránh các nguy cơ không an toàn còn kém so với các độ tuổi
khác nên khả năng gặp phải những nguy cơ không an toàn là rất cao.
Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài“ Một số biện pháp giáo dục trẻ 3 -
4 tuổi kỹ năng nhận biết và phòng tránh nguy cơ không an toàn trong trường
mầm non.”để nghiên cứu và áp dụng trực tiếp trên trẻ 3 - 4 lớp C1 do tôi phụ
trách năm học 2020-2021.
những nội dung giáo dục để xây dựng kế hoạch dạy theo các tháng như sau: Kế hoạch giáo dục Nội dung giáo dục Mục đích Tháng 9 - Bé làm gì khi có người lạ đến đón? - Những điều cần tránh khi ăn. - Trẻ biết nói không khi có người lạ đến đón về. - Trẻ biết không được cười đùa nói chuyện trong khi ăn, uống, hoặc khi ăn các loại quả có hạt... Tháng 10 - Đồ dùng gia đình nào an toàn, không an toàn? - Trẻ nhận biết các vật - Trẻ nhận biết được những loại đồ dùng an toàn và những loại đồ dùng không an toàn với bản thân. 9 gây hóc sặc. - Trẻ biết các vật gây hóc sặc và tránh xa các vật đó. Tháng 11 - Nhận biết các ký hiệu thông thường: WC, cấm lửa, cấm sờ vào ổ điện. - Biết tránh các vật nguy hiểm: vật sắc nhọn. - Trẻ biết được một số kí hiệu thông thường để không sờ vào những nơi có lửa hay ở điện. - Trẻ biết tránh xa các vật sắc nhọn. Tháng 12 - Bé có thể nhờ sự giúp đỡ từ ai? - Làm gì khi ở gần bể nước, ao, hồ, sông? - Trẻ biết nhờ đến sự trợ giúp của chú công an khi đi lạc đường, đi lạc ở siêu thị thì có thể nhờ chú bảo vệ, của cô giáo khi bé cần dùng dao, kéo hoặc những đồ vật quá cao.... - Trẻ biết tránh xa những nơi đó, không chạy nhảy, đùa nghịch quanh khu vực có chứa nước. Tháng 1 - Phòng ngừa chó cắn, mèo cào. - Những lưu ý với các vật gây bỏng - Trẻ biết thói quen xin phép trước khi tiếp xúc với chó, mèo. Không tiến lại gần, nếu con chó, mèo đó đang ăn, bị xích. Nếu con chó gầm gừ hay đuổi theo, hãy đứng im và 2 tay bắt chéo trước ngực. - Trẻ nhận biết các vật gây bỏng. Biết kêu người lớn giúp đỡ khi cần Tháng 2 Khi đi chơi bé cần nhớ những gì? - Không nhận quà bánh của người lạ. - Luôn nắm chặt tay bố mẹ, người lớn. Không đi theo hoặc nhận quà từ người lạ. - Trẻ biết trả lời “ không” khi có người không quen mời mình uống nước, ăn kẹo, ăn bánh. Nếu muốn ăn, uống, cầm thứ gì từ một người lạ, bé phải hỏi ý kiến bố mẹ trước. Tháng 3 - Những điều lưu ý khi ra vườn. - Trẻ biết khi ra vườn chơi phải đi dép hoặc giày, không chạm vào các con côn trùng đậu trên hoa... 10 - Những lưu ý khi ở độ cao - Trẻ biết khi lên xuống cầu thang không được đùa nghịch,đùn đẩy bạn. Không được trèo lan can. Tháng 4 - Bé bảo vệ mình khi thời tiết nắng hoặc mưa. - Trẻ không tự ý lấy thuốc uống. - Trẻ biết khi trời nắng phải đội mũ, nón, đeo khẩu trang, mặc quần áo dài tay khi ra đường. Trời mưa phải mặc áo mưa, che ô.Không ra nắng hoặc mưa chơi. - Trẻ biết không được tự ý lấy thuốc uống. Cần có người lớn cho phép. Tháng 5 - Bé làm gì khi bị lạc? - Bé làm gì khi bị xâm hại? - Khi ở trường nơi bé học, bé tìm tới bác bảo vệ hoặc cô giáo của bé. - Khi ở ngoài trường, trẻ biết dừng lại, đứng yên và nhìn xung quanh, nếu không thấy bố hoặc mẹ, quay lại và đi thẳng tìm đến những người có mặc đồng phục, đeo bảng tên(chú công an, bảo vệ...) - Trẻ biết kêu người lớn giúp đỡ khi bị xâm hại. Biết tránh xa với người lạ, không cho người lạ sờ vào người. Sau khi lựa chọn các nội trong tháng tôi thiết kế các hoạt động để triển khai dạy trẻ, có những nội dung phù hợp với việc lồng ghép trong các hoạt động học, có nội dung được đưa vào hoạt động ngoài trời. Nhưng cũng có nội dung được tổ chức thành các hoạt động riêng biệt trong các buổi chiều. Từ sự lựa chọn theo lịch trình trên sẽ giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc tuyên truyền tới phụ huynh về các cách phối hợp dạy trẻ kỹ năng sống cần thiết. Tạo được sự thống nhất giữa gia đình và nhà trường để hình thành thói quen và các phẩm chất nhân cách tốt ở trẻ. Trò chơi: "Tôi hỏi bạn trả lời " là trò chơi mà trẻ lớp tôi rất hứng thú Cách chơi: Cô sẽ đưa ra 1 số tình huống và hỏi trẻ ví dụ: Khi gặp người lạ cho con quà và tiến gần đến bên con con sẽ làm gì? (Hình ảnh 1) Khi đó trẻ sẽ lựa chọn quyền trẻ lời bằng cách rung sắc xô và trả lời, sau mỗi câu trả lời đúng trẻ sẽ được 1 miếng stick dán tay. Công tác giáo dục kỹ năng sống để phòng ngừa những trường hợp nguy cơ có thể xảy ra là rất yếu và rất thiếu trong thực trạng hiện nay. Nếu như các con 11 biết cách xử lý, biết ai là người được phép tiến gần, ai là người không được phép tiến gần hoặc ai là những người động chạm vào vùng kín trên cơ thể là những vùng như thế nào. Nếu như chỉ như vậy thì các con đã được biết rất là nhiều và có thể phòng tránh rất nhiều nguy cơ xấu có thể xảy ra. Một lần nữa chúng ta, qua những trường hợp thực tế vừa rồi mới thấy rằng công tác giáo dục kỹ năng sống để phòng ngừa cho cả phụ huynh và các con là rất cần thiết. Qua việc lựa chọn nội dung phù hợp với độ tuổi cho trẻ đặc biệt là nội dung giáo dục và các bài tập thực hành tôi thấy được hiệu quả rõ rệt. Trẻ lớp tôi rất thích được chơi qua các bài thực hành ở các giờ hoạt động chiều. Qua đó trẻ sẽ được giáo dục kỹ năng nhận biết và phòng tranh nguy cơ không an toàn một cách liền mạch giữa các tháng một cách cụ thể nội dung giáo dục sẽ nâng cao mức độ lên dần nhưng vẫn phù hợp với trẻ một cách hợp lí nhất. * Biện pháp 2: Sáng tác một số trò chơi, câu truyện, bài thơ, đồng dao để giúp trẻ nhận biết và và phòng tránh các nguy cơ không an toàn a. Sáng tác trò chơi: Qua thực tiễn tôi nhận thấy nếu dạy trẻ về các nguy cơ và chỉ “thực hành miệng” các cách phòng tránh, các cách hoạt động an toàn thì nhiều khi trẻ sẽ không hình dung ra được. Và tôi nhận thấy trò chơi, các bài thơ, câu truyện đem lại hiệu quả rất tốt trong việc giáo dục trẻ, giúp trẻ nhận biết một cách dễ dàng nhất, dễ hiểu nhất, giáo viên sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn khi truyền đạt kiến thức. Với đặc điểm của trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ mẫu giáo bé với khả năng tập trung và nhận thức chưa cao mà đối với trẻ thì hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, trẻ“ học bằng chơi, chơi mà học” nên tôi nhận thấy người giáo viên có thể truyền đạt kiến thức đến trẻ một cách dễ dàng và đơn giản nhất đó là thông qua các trò chơi. Tôi đã sáng tác một số trò chơi đơn giản nhằm giúp trẻ hứng thú tham gia hoạt động và có thể nhận biết, phòng tránh một số nguy cơ không an toàn một cách dễ dàng nhất. Nội dung trò chơi về nhận biết phòng tránh nguy cơ không an toàn, thông qua hoạt động với máy tính, tranh ảnh, lôtô. Tôi đã triển khai tổ chức thực hiện trên 100% trẻ tại lớp và đạt được kết quả tốt. Với các trò chơi này tôi tổ chức trong phần trò chơi ôn luyện các giờ học khám phá, giờ hoạt động chiều để góp phần giáo dục trẻ một cách hiệu quả nhất. Trò chơi 1: “ Bước nhảy thông minh”. Cách chơi: Cô cho trẻ đứng tự do quanh lớp, khi cô giơ hình ảnh về các loại đồ dùng thì trẻ phải quan sát, gọi tên đồ dùng đó. Nếu là đồ dùng không an toàn thì trẻ phải nhảy vào ô màu đỏ, nếu là đồ dùng an toàn thì trẻ nhảy vào ô màu xanh. 12 Luật chơi: Trẻ nào nhận biết sai và nhảy nhầm ô sẽ là người thua cuộc, sẽ phải nhảy lò cò quanh lớp. Kết quả: 97% trẻ nhận biết được các đồ vật: cái kéo, con dao, cái dĩa, que nhọn là đồ dùng gây nguy hiểm cho trẻ. (Hình ảnh 2) Trò chơi 2: “ Ngôi sao kì diệu” Cách chơi: Trên màn hình thiết kế 6 ngôi sao, và chia số trẻ làm 3 đội. Nhiệm vụ của các đội là lần lượt chọn ngôi sao, mỗi ngôi sao mở ra các đội phải quan sát và phân biệt đồ dùng, địa điểm, hành vi an toàn và không an toàn đối với trẻ. Thời gian là 1 đoạn nhạc, khi kết thúc, các đội phải nhanh tay lắc xắc xô và trả lời câu hỏi. Luật chơi: Đội nào lắc xắc xô trước khi có hiệu lệnh sẽ không được trả lời và nhường quyền trả lời cho bạn khác. Kết quả: 100% trẻ nhận biết và chọn đúng (Hình ảnh 3) Trò chơi 3: Bé hành động đúng Mục đích: Giúp trẻ nhận biết và chọn đúng một số hành vi gây nguy hiểm cho trẻ: leo trèo bàn ghế, leo lan can, đẩy nhau, nghịch các vật sắc nhọn Chuẩn bị: Trò chơi trên máy tính, nhạc, xắc xô. Cách chơi: Cô cho trẻ ngồi theo 3 đội và giới thiệu cách chơi, luật chơi. Trên màn hình sẽ xuất hiện hình ảnh một số hành vi an toàn và không an toàn với trẻ. Nhiệm vụ của các đội là quan sát, suy nghĩ trong thời gian 1 bản nhạc và lắc xắc xô thật nhanh. Đội nào lắc xắc xô trước sẽ dành quyền trả lời và lên kích chuột vào hình ảnh hành vi không an toàn. Luật chơi: Nếu chọn đúng sẽ được thưởng 1 tràng pháo tay. Chọn sai sẽ dành quyền chơi cho đội khác. Kết quả: 100% trẻ nhận biết đúng hành vi gây nguy hiểm cho trẻ. b. Sáng tác các bài thơ, câu chuyện: Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể chuyện, đọc thơ. Nội dung các câu chuyện, bài thơ thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ. Chính vì vậy tôi đã sáng tác một số bài thơ, câu chuyện lồng vào đó các tình huống để giáo dục trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự nguyện. Với đặc thù trẻ đang sống ở nông thôn, vì vậy việc giáo dục trẻ tránh xa ao, hồ, hồ nước nguy hiểm mà môi trường sống của trẻ hay gặp. Thì nhà vệ sinh cũng nhiều tình huống có thể gây nguy hiểm cho trẻ. Chính vì vậy, tôi đưa ra những tình huống để dạy trẻ cách sử dụng an toàn trong phòng tắm bằng cách đưa vào câu chuyện để trẻ rút ra bài học kinh nghiệm cho mình: 13 CHUYỆN : TRONG PHÒNG TẮM . Hôm nay, trời rất nóng. Vừa về đến nhà Nam đã giục mẹ : - Mẹ ơi, con nóng quá, cho con đi tắm. Mẹ nhắc: - Con ngồi một tí cho ráo mồ hôi đã rồi hãy vào tắm nếu không sẽ dễ bị cảm đấy! Nam ngồi ở quạt cho đỡ mồ hôi rồi vào tắm .Mẹ lấy ghế cho Nam ngồi rồi nhẹ nhàng xả nước gội đầu cho Nam. Gội đầu xong mẹ bảo: - Con ngồi đây kì cọ cho sạch đi nhé, mẹ ra cắm nồi cơm rồi mẹ vào tắm cho, con cẩn thận sàn nhà trơn lắm đấy! Mẹ ra rồi, Nam thích thú đùa nghịch với dòng nước mát. Cu cậu vặn nước rồi đùa nghịch với dòng nước. Hứng trí cậu còn đứng lên nhảy nhót vừa té nước vừa cười khanh khách. Bỗng “ Oạch” Nam bị trượt chân ngã đầu đập xuống nền đau điếng. Nam khóc ầm lên gọi mẹ. Mẹ vội vàng chạy vào đỡ Nam dậy, xem xét xem Nam có sao không. May mà chỉ hơi sưng. Mẹ nói : - Mẹ đã nhắc con phải cẩn thận rồi mà, sàn nhà tắm khi có nước vào sẽ rất trơn, nếu không cẩn thận sẽ bị ngã rất nguy hiểm. lần sau khi tắm con phải cẩn thận , đứng tại chỗ hoặc ngồi xuống ghế con nhớ chưa nào? - Vâng ạ! Từ đấy, mỗi khi đi tắm Nam luôn lấy ghế ngồi , không bao giờ đùa nghịch trong nhà tắm nữa. Qua câu chuyện tôi giúp trẻ rút ra bài học:Sàn nhà tắm rất trơn, tuyệt đối không chạy nhảy, leo trèo sẽ dễ bị ngã . Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những tình huống khác đối với trẻ như : Không tự ý xả nước ở vòi vì dễ xảy ra bỏng khi sử dụng bình nóng lạnh . Khi tắm bồn: Chờ người lớn xả nước và giúp vào bồn. Không tự ý xả nước và trèo vào đề phòng nước quá nhiều sẽ nguy hiểm, không nằm bồn tắm quá lâu. CHUYỆN: KHÔNG ĐƯỢC THEO NGƯỜI LẠ Gia Huy kể mấy hôm trước, đang ngồi trong sân trường chờ bà đến đón thì thấy Nam chạy lại, chìa cái kẹo ra rồi bảo: “ Ăn không? Bác kia cho đấy”. Bác còn bảo rủ thêm bạn ra bác ấy sẽ cho thêm” “ Ơ, bạn quen bác ấy à?” Gia Huy thắc mắc. Nam đáp: “Không quen” Gia Huy bảo: “Mẹ tớ dặn không được nhận đồ ăn của người lạ.” 14 Vừa dứt lời thì nghe tiếng bố của Nam gọi, bác kia thấy vậy liền vội vàng bỏ đi. Với nội dung câu chuyện như vậy cô và trẻ cùng thảo luận: - Nếu hai bạn đi đến với bác ấy thì sẽ có chuyện gì xảy ra? - Vậy bạn Gia Huy nhớ lời mẹ dặn như vậy là đúng không? - Nếu là con trong tình huống vậy con sẽ làm gì? Từ đó, các con biết cách tránh những cám dỗ và lừa gạt của người khác, cung cấp thêm cho các con kỹ năng tự bảo vệ mình không nhận quà bánh ,đồ chơi từ người lạ. Qua các câu chuyện ngắn cô và các con cùng thảo luận vấn đề trong câu chuyện để đưa ra cách xử lý khi gặp phải: Mặt khác tôi đã sáng tác thơ, bài đồng dao có nội dung phòng tránh một số nguy cơ không an toàn cho trẻ là một việc rất cần thiết. THƠ: XUỐNG CẦU THANG Này các bạn nhỏ Khi xuống cầu thang Bạn lưu ý nhé Bước xuống cẩn thận Nhớ đừng đùa nhau Đừng lấy tay vịn Làm cầu trượt chơi Nhỡ mà bị rơi Thì nguy hiểm lắm! Qua bài thơ tôi giúp trẻ rút ra bài học: Khi đi lên hoặc xuống cầu thang tuyệt đối không chạy nhảy, leo trèo sẽ dễ bị ngã rất nguy hiểm . THƠ: NHẮC BÉ Cái mũi để thở Cái miệng để ăn Nghe được rõ ràng Là tai bé đấy Không dùng que, gậy Hột hạt, đồ chơi Cho vào mọi nơi Mắt, tai, mũi, miệng Nhỡ gặp điều rủi Thì biết làm sao Phải nhớ lúc nào 15 Cũng luôn phòng tránh. Qua bài thơ tôi giúp trẻ rút ra bài học: Không cho đồ dùng, đồ chơi vào mắt, mũi, miệng, tai. Nếu cho vào sẽ rất nguy hiểm con con người. Nội dung các trò chơi và các bài thơ, câu chuyện thường ngắn ngọn dễ hiểu, để lại ấn tượng cho trẻ. Chính vì vậy tôi đã sưu tầm một số trò chơi bài thơ và câu chuyện để giáo dục trẻ một cách tự nhiên nhất, học được kỹ năng sống thông qua trò chơi và nghe kể chuyện, đọc thơ. Từ đó, giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú nhất. (Hình ảnh 4) * Biện pháp 3: Tạo tình huống cho trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm. Việc tạo tình huống cho trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm thực tế giúp trẻ dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Thay vì “ Con không được làm thế này, thế kia” thì ta nên đưa ra các tình huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì sẽ phải làm như thế nào? Từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó giúp trẻ dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm mình đã có để tìm cách giải quyết. Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống khác trong thực tế hàng ngày mà trẻ gặp. Dần hình thành cho trẻ những kinh nghiệm, những kỹ năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này. Việc xây dựng các tình huống cho trẻ trải nghiệm giúp giáo viên có cơ hội quan sát cách xử lý của trẻ và đánh giá mức độ nhận thức của trẻ đến đâu để có biện pháp tác động kịp thời. Mặt khác còn giúp cho giáo viên có thêm biện pháp mới trong việc giáo dục trẻ. Để thực hiện được biện pháp này tôi đã thực hiện theo các bước như sau: - Bước 1: Đưa ra các nội dung giáo dục trẻ để lấy làm tiêu chí xây dựng các tình huống. - Bước 2: Căn cứ vào các kĩ năng của trẻ tại lớp để xây dựng tình huống phù hợp với lứa tuổi mẫu giáo bé. - Bước 3: Đưa ra các cách giải quyết để hỗ trợ giáo viên khi tổ chức và thực hiện cho trẻ trải nghiệm các tình huống. Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, xây dựng một số tình huống để đưa vào khảo sát trên trẻ: 16 Tình huống 1 Các phản ứng và hành động của trẻ có thể xảy ra. Cách giải quyết và giáo dục của cô. Cô cho trẻ chơi tự do dưới sân trường và trẻ phát hiện có một cô lạ mặt đến cho quà (bánh, kẹo). Cô quan sát phản ứng của trẻ khi gặp tình huống đó và có sự can thiệp, giáo dục kịp thời. Mục tiêu cần đạt: - Trẻ nhận biết được không nhận quà, đồ ăn của người lạ thì dễ gây nguy hiểm. - Trẻ có kĩ năng phòng tránh: không ăn đồ ăn của người lạ, phòng tránh bắt cóc. - Trường hợp 1: Trẻ lại gần và định ăn đồ ăn trong túi. - Cô đến gần can thiệp và trò chuyện: + Con có biết cô ấy là ai không? + Đồ ăn này con lấy ở đâu? + Theo con có nên ăn đồ ăn của người lạ, không có nguồn gốc như thế không? + Cô giáo dục: Các con không nên ăn đồ ăn của người lạn vì nếu ăn các con sẽ có thể bị lừa bắt cóc hoặc đồ ăn không rõ nguồn gốc thì sẽ bị đau bụng. Con có người lạ đến gần thì thì phải gọi cô giáo hoặc chạy lại đến gần cô giáo. - Trường hợp 2: Trẻ không lấy và không ăn đồ ăn của người lạ mang đến cho. - Cô trò chuyện: + Con có cầm túi kẹo của bác ấy không? + Con có biết nó là của ai không? + Theo con có nên ăn đồ ăn của người lạ đó không? Vì sao? + Cô giáo dục: Các đồ ăn người lạ mà các con thấy ở đâu cũng không nên ăn vì có thể sẽ làm con bị đau bụng hoạc họ sẽ cho và lừa để bắt cóc nên nếu thấy con phải chạy đến những người quen. Cô khen ngợi và nêu gương trẻ. Kết quả: 100% trẻ lớp tôi xử lý tình huống theo trường hợp 2. 17 Kết quả:Tôi đã thử đưa tình huống này vào cho trẻ lớp tôi trải nghiệm và kết quả đạt được là đa số trẻ lớp tôi đều xử lí theo trường hợp 2. Tình huống 2 Các phản ứng và hành động của trẻ có thể xảy ra. Cách giải quyết và giáo dục của cô. Cô cho trẻ làm bánh trôi nước. Sau đó cô luộc bánh trôi cho trẻ quan sát và xem trẻ có lại gần và mở nắp khi đang luộc bánh. Trong khi luộc bánh nước sôi có thể gây nguy hiểm cho trẻ. Cô quan sát phản ứng của trẻ và đưa ra cách giải quyết, giáo dục. Mục tiêu cần đạt: - Trẻ nhận biết được các đồ dùng đang đun sôi lại gần sẽ không an toàn, rất nguy hiểm. - Trẻ có kĩ năng phòng tránh: nếu nhìn thấy nước đang sôi không được lại gần và phải tránh xa. - Trường hợp 1: Trẻ lại gần định mở nắp ra và xem trong nồi có gì? - Cô đến gần và trò chuyện: + Các con đang làm gì? + Các con biết cô đang đun cái gì không? + Chuyện gì xảy ra nếu các con lại gần nước đang đun sôi như vậy? + Nếu thấy những đồ đang đun trên bếp các con có được lại gần không? + Cô giáo dục: Nếu con thấy những đồ vật đang đun trên bếp các con nhớ không được lại gần và nên tránh xa nếu lại gần sẽ rất nguy hiểm - Trường hợp 2: Trẻ không lại gần nồi nước đang đun sôi và tránh xa. - Cô trò chuyện: + Đây là cái gì? Tại sao con biết nước đang sôi? + Vì sao các con không biết được lại gần nươc đang đun sôi? + Cô giáo dục: Nước sôi dễ gây nguy hiểm cho các con nếu các con sờ vào sẽ bị bỏng rất nguy hiểm nên không được sờ vào hay lại gần. Cô khen ngợi đã biết tránh xa những đồ dùng nguy hiểm. Kết quả: 100% trẻ lớp tôi xử lý tình huống theo trường hợp 2. Tôi đã áp dụng các tình huống cho trẻ ở lớp tôi và kết quả đạt được đó là trẻ nhận biết được các nguy cơ không an toàn và có kĩ năng giải quyết tình huống hợp lý. Tôi đã áp dụng các tình huống cho trẻ ở lớp tôi và kết quả đạt được đó là trẻ nhận biết được các nguy cơ không an toàn và có kĩ năng giải quyết tình 18 huống hợp lý. Tôi nghĩ đây là một biện pháp hay vì qua biện pháp này đã phát huy được tính tích cực của trẻ. Từ đó trẻ có cơ hội được thực hành, được trải nghiệm được đóng vai như người bị hại và qua đó trẻ biết giải quyết tình huống trực tiếp còn giáo viên sẽ quan sát các hành động của trẻ chân thực nhất để từ đó có hướng điều chinhe giáo dục kịp thời với từng cá nhân trẻ. * Biện pháp 4:Tuyên truyền nâng cao nhận thức từ giáo viên đến các bậc phụ huynh để giáo dục trẻ nhận biết và phòng tránh các nguy cơ không an toàn. a. Tuyên truyền nâng cao nhận thức của giáo viên lớp đến giáo viên trong trường: Có thể nói việc đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ trong trường mầm non là một trong những thành công của giáo viên mầm non. Để hoàn thành tốt được nhiệm vụ đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có sự theo dõi chặt chẽ trong mọi hoạt động của trẻ. Tuy nhiên số lượng trẻ trong từng lớp càng ngày càng đông do đó làm hạn chế khả năng bao quát của giáo viên mầm non. Tình trạng trẻ mắc thương tích là không tránh khỏi. Chính vì thế, các cuộc vận động xây dựng môi trường lớp học an toàn cho trẻ luôn được giáo viên lớp tôi cũng như các lớp khác hưởng ứng và thực hiện một cách tích cực. Là giáo viên trực tiếp đứng lớp tôi xây dựng các biểu bảng, đểtuyên truyền sưu tầm các tranh ảnh về các đồ vật không an toàn, các địa điểm có nguy cơ không an toàn, các hoạt động có nguy cơ không an toàn, trưng bày ở các lớp học,các góc vận động, các góc tuyên truyền của trường.Hàng ngày trước khi đón trẻ và trước khi ra về tôi cùng các giáo viên dọn dẹp lớp sạch sẽ, kiểm tra và loại bỏ các nguy cơ có thể gây mất an toàn cho trẻ. Hàng tuần vào chiều thứ sáu tôi cùng tất cả cán bộ giáo viên đều tham gia tổng vệ sinh trong và ngoài phòng học, phòng làm việc,sân trường, vườn trường loại bỏ các nguy cơ gây mất an toàn cho trẻ khi trẻ học tập và vui chơi trong trường. Ví dụ như chặt bỏ những cành cây khô, sắp xếp kho gọn gàng,
Tài liệu đính kèm: