Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giảng dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam 1919-1930 nhằm phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giảng dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam 1919-1930 nhằm phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh

- Bài 12 tiết 1- SGK 12 cơ bản, khi dạy tới phần giai cấp tư sản, nói về bộ phận tư sản dân tộc, giáo viên kể chuyện nhà tư sản Bạch Thái Bưởi.

Bạch Thái Bưởi (1874-1932), sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng An Phúc, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội). Ông vốn mang họ Đỗ, nhưng vì mồ côi cha từ nhỏ nên phải phụ giúp mẹ kiếm sống bằng nghề bán hàng rong. Sau đó, ông được một người họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học, mới đổi sang họ Bạch. Một ngày, ông quyết định bỏ học đi làm công cho một hãng buôn của người Pháp. Năm 1895, nhân sự kiện ở Pháp tổ chức hội đấu xảo thành Bordeaux, ông được theo chủ sang đây để giới thiệu những sản phẩm của Việt Nam. Từ đó, ông đã nắm bắt và học hỏi được rất nhiều điều từ nền văn minh phương Tây.

Lao đao khởi nghiệp.

Trở về nước đúng vào dịp Pháp đang thi công công trình cầu Sông Cái, ông xin vào làm công ở đây. Lúc bấy giờ, người Pháp đang triển khai xây dựng đường sắt và có nhu cầu rất lớn về gỗ nên ông đã mạnh dạn chung vốn với một người Pháp để cung cấp tà vẹt gỗ cho Sở xe hỏa. Suốt 3 năm ròng rã, ông lặn lội khắp các tỉnh để tìm gỗ đảm bảo yêu cầu cung cấp cho các đối tác. Bằng uy tín của mình, Bạch Thái Bưởi đã thiết lập được những mối quan hệ làm ăn khá bền vững. Nguồn lợi nhuận không nhỏ thu được từ công việc này, thay bằng việc chọn một nghề chắc tay để kiếm lời như cho vay lãi, tậu ruộng, mua nhà, hưởng cuộc sống an nhàn, ông lại tiếp tục dấn thân vào sự nghiệp buôn bán, lĩnh vực mà người Việt vốn hết sức lép vế trước người ngoại quốc.

 

doc 22 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 15/08/2023 Lượt xem 344Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giảng dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam 1919-1930 nhằm phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 sử Việt Nam ở trường THPT, sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử
Song, cho đến nay, chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp giảng dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam 1919-1930 nhằm phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh" làm sáng kiến kinh nghiệm năm học 2013 - 2014. 
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
Để tạo sự hứng thú và phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh tôi đã sử dụng một số biện pháp sau:
2.3.1. Phương pháp sử dụng bản dồ tư duy.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp.
Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ tư duy theo một cách riêng, do đó việc lậpbản đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc, công việc của giáo viên đỡ vất vả nhiều so với cách dạy truyền thống, giúp các em không thấy nhàm chán vì bài học dài dòng mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Đồng thời sẽ nâng cao hiệu quả trong việc củng cố kiến thức, rèn các kỹ năng và phát triển tư duy lôgíc cho học sinh.
 Sử dụng Bản đồ tư duy giúp học sinh học được phương pháp học, học tập một cách tích cực huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu, và cũng là một phương pháp ghi chép tối ưu so với phương pháp ghi chép truyền thống. Sau đây là một số cách sử dụng bản đồ tư duy khi dạy học phần lịch sử Việt Nam 1919 – 1930.
b. Tổ chức, triển khai thực hiện.
* Sử dụng Bản đồ tư duy để tóm tắt nội dung bài học.
 Khi học xong bài 12 tiết 1 - SGK cơ bản, để tóm tắt nội dung bài học, giáo viên trình chiếu sơ đồ tư duy sau.
Nội dung tóm lược ấy sẽ khiến học sinh nhớ được nội dung cơ bản của bài học và khắc sâu kiến thức của tiết học.
* Sử dụng Bản đồ tư duy để kiểm tra bài cũ.
 Trước khi dạy Tiết 17 Mục II- Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt từ năm 1919-1925 (Lịch sử 12) giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD ở tiết 16 (Mục I: Những chuyển biến mới về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất)
Như vậy qua việc hoàn thiện BĐTD, học sinh nói rõ hơn về thái độ chính trị và khả năng cách mạng của từng gia cấp, tầng lớp xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hay nói cách khác là nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ chìa khóa trung tâm. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên cần căn cứ vào đó để đánh giá, nhận xét.
* Sử dụng Bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà.
Để dạy tốt bài 13 (Lịch sử 12): Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930, mục II, ý 2: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu nội dung của bài học theo các câu hỏi cuối mỗi mục trong bài, mặt khác yêu cầu học sinh sưu tầm một số tranh ảnh có liên quan đến bài học và thể hiện được tính sáng tạo, thẩm mỹ cao. Sau đó khi dạy bài mới giáo viên cho học sinh đối chiếu so sánh nội dung đã chuẩn bị ở nhà xem đúng không, đầy đủ chưa, đồng thời giáo viên phải chuẩn bị một Bản đồ tư duy có đầy đủ nội dung kiến thức của bài học này để giới thiệu và nhấn mạnh kiến thức cho học sinh nắm chắc, nhớ sâu bài.
Lưu ý: sơ đồ tư duy này có thể dùng ở bài 13 tiết 2 hoặc cả bài 14 tiết 2 – SGK cơ bản 
2.3.2 Sử dụng tư liệu văn học.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp.
Tài liệu văn học là một loại tài liệu lịch sử, là nguồn thông tin không thể thiếu trong dạy học lịch sử, nhất là chương trình lịch sử dân tộc. Do đặc trưng của bộ môn, kiến thức lịch sử là những kiến thức quá khứ, học sinh khó học, khó nhớ nên khi giáo viên sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó các em có thể dễ dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát. Mặt khác, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh.
b. Tổ chức, triển khai thực hiện.
Tư liệu văn học được sử dụng trong giai đoạn này cụ thể như sau:
- Khi dạy bài 12 tiết 1 – SGK 12 cơ bản, mô tả về đời sống cực khổ của giai cấp nông dân và công nhân, giáo viên đọc đoạn thơ sau.
Giai cấp nông dân bị boá lột tàn tệ :
 Nửa đêm thuế thúc trống dồn
 Sân đình máu chảy , đường thôn lính đầy...
 Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
 Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
 Kiếp người cơm vãi, cơm rơi
 Biết đâu nẻo đất, phương trời mà đi
Tình cảnh giai cấp công nhân:
 Cha trốn ra Hòn Gay cuốc mỏ
 Anh chạy vào đất đỏ làm phu 
 Bán thân đổi mấy đồng xu
 Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng.
Từ đó học sinh sẽ hiểu rõ hơn về đời sống cực khổ của người công nhân, nông dân Việt Nam trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
- Dạy bài 12 tiết 2 – SGK 12 cơ bản, khi giảng về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, khi Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin, giáo viên đọc đoạn thơ sau.
 “ Xóm thợ Pa ri nghèo cuối ngõ
 Tưng bừng gác trọ đón bình minh
 Mác - Lê nin đến từng trang đỏ
 Chân lý đây rồi lẽ tử sinh”.
 ( Theo chân Bác - Tố Hữu ).
 “ Luận cương Lê nin đến Bác Hồ và Người đã khóc
 Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê nin
 Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
 Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin”.
 ( Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên).
- Dạy bài 13 tiết 2 – SGK cơ bản, khi tới phần ý nghĩa sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo viên đọc đoạn thơ sau:
 “ Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
 Không quê hương sương gió tơi bời
 Đảng ta sinh ở trên đời
 Một hòn máu đỏ nên người hôm nay
 Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt
 Đảng ta đây sương sắt da đồng
 Đảng ta muôn vạn công nông
 Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin
 Đảng ta Mác - Lê nin vĩ đại
 Đã hồi sinh trả lại cho ta
 Trời cao đất rộng bao la
 Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người”.
 ( Tố Hữu ).
2.3.3. Kể chuyện lịch sử.
a. Cơ sở đề xuất giải pháp.	
Giai đoạn  lịch sử việt Nam 1919 – 1930  có nhiều sự kiện gắn liền với các nhân vật lịch sử với những câu chuyện lịch sử sinh
động. Những câu chuyện lịch sử có tác dụng cụ thể hóa kiến thức, giúp các em tái hiện quá khứ một cách chân thực, tránh hiện đại hóa lịch sử. Đồng thời có tác dụng mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của học sinh, hình thành trong các em lý tưởng sống cao đẹp và ý thức trách nhiệm của mình  với  quê  hương  đất  nước. 
b. Tổ chức, triển khai thực hiện.
- Bài 12 tiết 1- SGK 12 cơ bản, khi dạy tới phần giai cấp tư sản, nói về bộ phận tư sản dân tộc, giáo viên kể chuyện nhà tư sản Bạch Thái Bưởi.
Bạch Thái Bưởi (1874-1932), sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở làng An Phúc, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội). Ông vốn mang họ Đỗ, nhưng vì mồ côi cha từ nhỏ nên phải phụ giúp mẹ kiếm sống bằng nghề bán hàng rong. Sau đó, ông được một người họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học, mới đổi sang họ Bạch. Một ngày, ông quyết định bỏ học đi làm công cho một hãng buôn của người Pháp. Năm 1895, nhân sự kiện ở Pháp tổ chức hội đấu xảo thành Bordeaux, ông được theo chủ sang đây để giới thiệu những sản phẩm của Việt Nam. Từ đó, ông đã nắm bắt và học hỏi được rất nhiều điều từ nền văn minh phương Tây. 
Lao đao khởi nghiệp.
Trở về nước đúng vào dịp Pháp đang thi công công trình cầu Sông Cái, ông xin vào làm công ở đây. Lúc bấy giờ, người Pháp đang triển khai xây dựng đường sắt và có nhu cầu rất lớn về gỗ nên ông đã mạnh dạn chung vốn với một người Pháp để cung cấp tà vẹt gỗ cho Sở xe hỏa. Suốt 3 năm ròng rã, ông lặn lội khắp các tỉnh để tìm gỗ đảm bảo yêu cầu cung cấp cho các đối tác. Bằng uy tín của mình, Bạch Thái Bưởi đã thiết lập được những mối quan hệ làm ăn khá bền vững. Nguồn lợi nhuận không nhỏ thu được từ công việc này, thay bằng việc chọn một nghề chắc tay để kiếm lời như cho vay lãi, tậu ruộng, mua nhà, hưởng cuộc sống an nhàn, ông lại tiếp tục dấn thân vào sự nghiệp buôn bán, lĩnh vực mà người Việt vốn hết sức lép vế trước người ngoại quốc. 
Bạch Thái Bưởi luôn xác định thương trường là chiến trường, không thể đứng yên một chỗ. Trong thời kỳ này, nghề buôn ngô xuất cảng đang hái ra tiền nên ông đã hùn vốn để theo đuổi. Tuy nhiên, khi nghề này trở nên thịnh hành thì giá ngô ngày một cao, lại gặp cảnh mất mùa nên những hợp đồng cung cấp ngô bị phá sản khiến ông trắng tay phải làm lại từ đầu. "Buông dầm cầm chèo", sự linh hoạt, nhạy bén của Bạch Thái Bưởi luôn khiến ông phải vận động, khi đắc thắng, ông không hề tự bằng lòng và khi thất bại, ông không chịu thúc thủ. Và rồi, ông đã lấy lại được những gì đã mất khi đấu giá thành công một hiệu cầm đồ ở Nam Định. Từ đây, ông có cơ hội phất lên và tiếp tục tham gia thầu thuế chợ, buôn rượu, mở nhà in, khai thác mỏ
Đầu thế kỷ XX, Bạch Thái Bưởi nhận thấy nghề vận tải trên các con sông có tiềm năng rất lớn nên quyết tâm theo đuổi. Năm 1909, nhân việc một hãng tàu Pháp chở thư và hành khách đường sông Bắc kỳ vừa hết hạn hợp đồng với chính phủ, Bạch Thái Bưởi đã thuê lại 3 chiếc tàu của hãng này. Ông lập tức mở tuyến vận tải Nam Định - Hà Nội và Nam Định - Bến Thủy (Nghệ An). Đây là hai tuyến tàu khách trọng yếu lúc bấy giờ. Vốn không phải chủ tàu chuyên nghiệp lại không có một chiếc tàu nào nên Bạch Thái Bưởi phải đối đầu với các chủ tàu vừa sành nghề, vừa rộng vốn. Biết rằng mình đang gặp cảnh "trứng chọi đá", song ông vẫn quyết tâm theo đuổi. Ông vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ các chủ tàu người Pháp, người Hoa và họ quyết đánh bật ông ra khỏi cuộc chơi. Để lôi kéo khách hàng, các bên bắt đầu hạ giá vé, bên nào yếu thế phải chấp nhận thua cuộc. Biết rằng đây là cuộc chơi không cân sức, song Bạch Thái Bưởi không bao giờ nghĩ tới chuyện bỏ cuộc. Mỗi tháng ông bỏ ra tới hơn 2.000 đô-la Mỹ tiền thuê tàu, nhưng chạy mỗi chuyến chỉ được 15 đến 20 đồng Đông Dương. Nguy cơ vỡ nợ hiện hữu trước mắt nhưng nhờ bản tính nhanh nhạy, thông minh hơn người nên ông đã tìm cách vượt qua khó khăn. Mặc dù lép vế hơn rất nhiều so với các đối thủ về cả nhân lực và vật lực, song yếu tố vô cùng quan trọng giúp Bạch Thái Bưởi vượt qua khủng hoảng là tinh thần dân tộc. Là người hiểu hơn ai hết những thiệt thòi của người Việt trong thương trường thời kỳ bấy giờ nên ông đã chủ trương khơi dậy lòng tự tôn dân tộc. Ông đã cử người lên các bến tàu để vận động người dân ủng hộ mình trong cuộc cạnh tranh với người ngoại quốc. Mỗi tàu, ông cho đặt một cái ống, kêu gọi mọi người ai có lòng tùy tâm bỏ tiền vào đấy để giúp chủ tàu có thêm chi phí kinh doanh. Sự tinh tế trong cách làm của ông đã được đông đảo công chúng đón nhận bằng những tình cảm quý báu. Và rồi, hành khách của ông cứ mỗi ngày một tăng lên, ông dần xây dựng được thương hiệu bền vững trong thị trường. Trong khi đó, các đối thủ của ông dù tung ra rất nhiều thủ đoạn để chèn ép song vẫn lần lượt hứng chịu thất bại, nhiều chủ tàu nước ngoài thậm chí bị phá sản phải bán tàu lại cho Bạch Thái Bưởi.
"Chúa sông Bắc kỳ"
Có thể nói, thành công lớn nhất trong sự nghiệp của Bạch Thái Bưởi chính là nghề hàng hải, một nghề xưa nay không phải sở trường của người Việt và luôn bị các thế lực ngoại bang chèn ép. Đây là nghề ông gặp phải nhiều gian nan, nguy hiểm nhất nhưng cũng đầy vẻ vang trong sự nghiệp của mình. Từ chỗ phải bỏ tiền thuê 3 chiếc tàu để kinh doanh, dần dần ông đã mua hẳn 3 con tàu này. Đặc biệt, ông còn thâu tóm được các đội tàu của các công ty thuộc sở hữu của người Pháp và người Hoa sau khi bị phá sản như Marty D'Abbadie, Desch Wanden... Thậm chí chính những người Pháp trong các công ty này được ông thu nạp để làm công cho mình.
Tiềm lực ngày càng mạnh, thế đứng ngày càng vững nhưng Bạch Thái Bưởi không bao giờ chịu bằng lòng với những thành quả đạt được. Ông tham vọng tổ chức một đội tàu thật lớn, có quy mô hoành tráng. Với tầm nhìn xa, tư duy chiến lược, ông đã chủ trương thu mua tất cả các tàu cũ, nhất là tàu của các đối thủ cạnh tranh. Điều đặc biệt là ông cố ý mua đắt hơn rất nhiều so với giá thị trường nhằm cắt cơ hội của các đối thủ. Bước đi chiến lược ấy rõ ràng có cơ sở, bởi trước đó, ông đã thương lượng thành công và mua lại một xưởng sửa chữa tàu của người Pháp khi người chủ qua đời. Những con tàu sau khi được tân trang, nâng cấp đã phát huy hiệu quả, mang lại nguồn lợi nhuận đáng kể.
Sau gần chục năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu với hàng loạt chi nhánh ở nhiều nơi. Đến năm 1916, công ty hàng hải mang tên Giang Hải Luân thuyền Bạch Thái Bưởi đã ra đời với lá cờ hiệu màu vàng có hình chiếc mỏ neo và 3 ngôi sao đỏ. Với tư duy lớn, lại giàu lòng tự tôn dân tộc, ông đã từng bước khẳng định được trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Năm 1919, tại Cửa Cấm (Hải Phòng), ông đã cho hạ thủy con tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt tự thiết kế và thi công. Con tàu này dài tới 46m, rộng hơn 7m, cao 3,6m, trọng tải 600 tấn, công suất trên 400 mã lực, chạy bằng hơi nước, vận tốc đạt 8 hải lý/giờ. Một năm sau đó, tàu Bình Chuẩn xuất phát từ Hải Phòng và cập bến Sài Gòn trong sự chào đón nồng nhiệt của công chúng. Đây được xem là sự kiện nổi bật nhất trong Phong trào chấn hưng thương trường cổ động thực nghiệp của giới tư sản Việt Nam lúc bấy giờ.
Được mệnh danh là "Chúa sông Bắc kỳ", mỗi năm, công ty của Bạch Thái Bưởi chở tới hơn 5.000 chuyến, với 1,5 triệu hành khách và hơn 15 vạn tấn hàng. Không chỉ ở trong nước, công ty của ông mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các nước lân cận như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore Tên tuổi ông không những gắn liền với ngành hàng hải, mà còn gắn liền với những ngành vốn độc quyền của các thế lực ngoại bang như in ấn, khai thác mỏ Ông trở thành thần tượng của các thế hệ doanh nhân Việt Nam. 
Câu chuyện giáo viên kể với mục đích: học sinh hiểu biết về một nhà tư sản nối tiếng của dân tộc, đồng thời khâm phục, trân trọng bộ phận tư sản người Việt – những người ít nhiều có tinh thần dân tộc, là lực lượng có thể tham gia vào phong trào cách mạng dân tộc.
 - Bài 13 SGK 12 cơ bản - khi Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu – Trung Quốc thành lập Hội Việt nam Cách mạng thanh niên, giáo viên kể câu chuyện.
An be Xa rô, từ toàn quyền Đông Dương về làm bộ trưởng thuộc địa ở Pháp, có lần hăm dọạ Nguyễn Ái Quốc như lại vach ra đúng hành trình của Nguyễn Ái Quốc từ Pháp đi Liên Xô, từ Liên Xô đi Quảng Châu ( Trung Quốc):
 “ Nước Pháp rất khoan hồng, nước Pháp rất muốn làm những việc cải cách. Nhưng nước Pháp sẽ không tha thứ cho những người nào từ Pa ri đến Mạc tư khoa, từ Mạc tư khoa đến Quảng Châu và từ Quảng Châu đến Đông Dương kiếm cách gây nên những sự rối loạn”.
 ( Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch - Trang 61
 - Trần Dân Tiên).
2.3.4. Sử dụng đoạn phim lịch sử.
a. Cơ sở đề xuất các giải pháp.
Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ, giúp học sinh có thể hiểu rõ về từng sự kiện lịch sử giáo viên sưu tầm những đoạn phim tư liệu đưa vào tiết học sẽ khiến học sinh hứng thú và nhớ sự kiện lâu hơn.
b. Tổ chức, triển khai thực hiện.
- Bài 12 tiết 1 – SGK 12 cơ bản, khi dạy mục 3. Những chuyển biến mới về giai cấp xã hội ở Việt Nam, về tình cảnh người nông dân, để bài học thêm sinh động, học sinh hiểu rõ hơn về đời sống cực khổ của người nông dân, họ bị thực dân, đại địa chủ dồn đến bước đường cùng, giáo viên chiếu đoạn phim chị Dậu bán con và bán chó trích trong phim Chị Dậu.
- Bài 12 tiết 2 – SGK 12 cơ bản, khi dạy mục 3 hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, giáo viên chiếu đoạn phim trích trong tập phim tài liệu “ Hồ Chí Minh – chân dung một con người”. Đoạn phim tư liệu về cuộc hành trình cứu nước của Bác sẽ khơi dậy thêm trong các em lòng khâm phục và kinh yêu Bác Hồ trong cuộc hành trình đầy gian vì độc lập tự do cho Tổ quốc.
2.3.5. Tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Cơ sở đề xuất các giải pháp.
Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã và đang thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trên khắp cả nước, các nhà trường đã và đang phát động tổ chức thực hiện cuộc vận động này. Để góp phần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vân động này tại trường học thì việc lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là rất cần thiết. việc tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử sẽ đem đến cho học sinh một buổi học lí thú, một niềm tin, nhận thức đúng đắn, tránh những tư tưởng sai lệch do những thông tin ngoài luồng, do tác động của xã hội.
b. Tổ chức, triển khai thực hiện.
Trong một bài dạy có thể dùng hình ảnh, tư liệu, phim tư liệu, kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh, trích dẫn những câu nói của Bác hoặc tư liệu văn học về Bác để giáo dục tư tưởng của Bác đối với học sinh ( ở những phần trên đã trình bày). Sau đây là trích dẫn một số câu nói, bài phát biểu của Người.
- Bài 12 tiết 2 SGK cơ bản- Hoạt động của nguyễn ái Quốc.
 + Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất “Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin”, giáo viên đọc đoạn trích trong Hồ Chí Minh toàn tập.
 “ Luận cương của Lê nin làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
 ( Hồ Chí Minh).
+ Khi nói về mối quan hệ giữa phong trào đấu của vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Người phát biểu “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
2.3.6. Sử dụng bảng hệ thống kiến thức.
a. Cơ sở đề xuất các giải pháp.
Trong dạy học Lịch sử, phương pháp lập bảng hệ thống kiến thức, so sánh có vai trò hết sức quan trọng: tạo hứng thú học tập, khắc sâu kiến thức, phát triển các thao tác tư duy và khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. 
Đề cao việc hướng dẫn học sinh phương pháp lĩnh hội kiến thức nhanh, sâu sắc và nhớ lâu bằng những cách thức đơn giản. Nhờ đó học sinh có thể mất ít thời gian học tập, song vẫn mang lại kết quả cao. Qua đó rèn luyện các kĩ năng tư duy, thực hành (tổng hợp, khái quát kiến thức, kĩ năng lập bảng biểu). 
b. Tổ chức, triển khai thực hiện.
Giai đoạn lịch sử Việt Nam 1919 – 1930 có nhiều sự kiện lịch sử khó nhớ, vì vậy khi dạy xong cả chương, để học sinh khắc sâu, hệ thống hóa kiến thức, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh làm một số bảng hệ thống kiến thức sau.
- Lập bảng về phong trào đấu tranh của tư sản dân tộc với phong trào đấu tranh của vô sản ( 1919- 1930 ).
Thời kì.
Nội dung.
phong trào đấu tranh của tư sản dân tộc. 
phong trào đấu tranh của vô sản.
1919-
1925.
Các cuộc đấu tranh chủ yếu.
- Chấn hưng nội hoá. Bài trừ ngoại hoá.
- Chống sự chèn ép của tư bản Pháp: Chống độc quyền thương cảng Sài Gòn, chống độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì.
 Có 25 cuộc đấu tranh quy mô tương đối lớn.
8/ 1925 công nhân Ba Son bãi công.
Tổ chức.
 Lập Đảng Lập hiến nhưng chưa phải là chính đảng.
 1920 Lập Công hội Sài Gòn - Chợ Lớn.
6. 1925 lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên.
Mục tiêu đấu tranh.
 Đòi quyền lợi kinh tế cho giai cấp mình.
 Nặng mục tiêu kinh tế, đòi cải thiện đời sống.
Tính chất.
 Thoả

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giang_day_giai_doan_l.doc
  • docBAO CAO TOM TAT TAM SU.doc
  • docBia SKKN 2014.doc
  • docDON SKKN.doc
  • docMỤC LỤC.doc