2.2. Mục tiêu:
Phẩm chất đạo đức con người không phải lúc sinh ra đã có. Những tác động
từ bên ngoài để hình thành tâm hồn, tính cách của một con người diễn ra bằng
nhiều hình thức. Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn
cảnh khác nhau. Một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của
phụ huynh vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định. Hai là những
em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc
con cái. Môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại mang đến cho các em một thiếu
sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kĩ năng sống. Vì vậy, việc giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở qua học tập, sinh hoạt ở trường là
điều hết sức cần thiết. Do đó, tôi mạnh dạn đưa hoạt động rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh vào phân môn tập làm văn là “Lồng ghép kĩ năng sống vào
phân môn Tập làm văn (tự sự kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm) trong chương
trình Ngữ văn lớp 8”. Từ đó giúp cho học sinh có thái độ và hành vi, thói quen
lành mạnh để thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hòa về
thể chất lẫn trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Đó chính là những đặc trưng cơ bản
quyết định đến mục tiêu của cuộc sống trong môn học Ngữ văn.
chính mình và người khác. - Đôi khi giáo viên quá nhấn maṇh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản mà quên gắn với những liên hê ̣ thưc̣ tế đời sống, dẫn đến viêc̣ khai thác kiến thức tư tưởng có ý nghĩa giáo dục cơ bản một cách chưa đầy đủ. -Vốn kiến thức của giáo viên còn haṇ chế, thiếu sư ̣mở rôṇg . - Giáo viên chưa vâṇ duṇg linh hoaṭ các phương pháp daỵ hoc̣ cũng như các biêṇ pháp tổ chức daỵ học nhằm gây hứng thú cho học sinh. - Giờ daỵ nhiều bài thì khá tốt nhưng có nhiều bài không thưc̣ sư ̣thu hút sư ̣chú ý của hoc̣ sinh. Từ đó, tôi thấy việc vận dụng kĩ năng sống vào tập làm văn (tự sự kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm) để giúp học sinh rèn luyện hành vi và thái độ vô cùng quan trọng đối với giáo viên. Bởi vì lứa tuổi các em đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn 4 thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, Các em không chịu đầu tư thời gian để học, ý thức tự học kém, suy nghĩ hời hợt không sâu sắc về những điều mình muốn nói, do đó khả năng diễn đạt kém, không diễn tả được điều mà mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ chính xác điều mình cần muốn nói. Đây là vấn đề khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức cho học sinh. Mặt khác trong gia đình không nhắc nhở, kiểm tra việc học của con em. Chúng muốn đi đâu, học hay chơi cũng không cần biết, trong nhà lúc nào cũng mở ti vi hay các phượng tiện giải trí khác Thật là bất ổn trong việc tự học ở nhà của các em, mà với cách học mới thời gian tự học ở nhà là rất cần thiết và bắt buộc phải có. Tất cả những vấn đề gây khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức cho học sinh. Từ đó, tôi thấy việc vận dụng kĩ năng sống vào tập làm văn ( tự sự kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm) là rất cần thiết tạo nên sự hứng thú, say mê trong quá trình làm văn. Bởi vì tập làm văn là một môn học thuộc bộ môn Ngữ văn. Đây là một môn học mang tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình bộ môn Ngữ Văn. Môn học này có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức cơ bản về lý thuyết các thể loại, các kiểu bài cùng những phương pháp, thao tác rèn luyện các kĩ năng để sản sinh ra các thể loại văn bản theo dạng nói và viết. Từ đó, bồi dưỡng cho các em phát triển năng lực tư duy, giáo dục tình cảm đạo đức, hình thành nhân cách, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo và khả năng tự học giúp các em thêm yêu quí và tự hào về sự giàu đẹp của tiếng nói dân tộc mình. Tiếp thu tinh thần đổi mới phương pháp giáo dục “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo.” Ngoài kiến thức, mỗi người cần trang bị cho mình những năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực tự học, năng lực thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên, để ngày càng hoàn thiện bản thân và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo con người mới. Với đầy đủ các mặt đức, nghĩa, lễ, trí, tín.Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết. Sao cho các em cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, chứ không chỉ trên sách vở hay những lời nói suông. Việc giáo dục kĩ năng sống cho các em bắt đầu từ việc định hướng, hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hằng ngày. 5. Mô tả sáng kiến: Thông qua việc nghiên cứu kĩ năng sống của học sinh trong môn Ngữ văn, trong quá trình giảng dạy, tôi đã lồng ghép kĩ năng sống vào tập làm văn (tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm), để áp dụng vào thực tiễn, tìm ra phương pháp dạy văn tự sự kết hợp hai yếu tố miêu tả và biểu cảm một cách phù hợp 5 nhất để cung cấp kiến thức cơ bản một cách hệ thống cụ thể, kích thích tư duy sáng tạo, gây hứng thú học tập, lòng say mê, tự tin mạnh dạn bày tỏ ý kiến, biết giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong mọi công việc Đồng thời bản thân tôi muốn trang bị cho các em những kiến thức, thái độ và kĩ năng phù hợp. Bên cạnh đó thông qua tiết học giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh, để từ đó các em học tập và sống tốt hơn. Giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội trình bày ý kiến của mình, được quyền thảo luận với bạn bè trong tổ, nhóm. Từ đó hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh sẽ dễ dàng diễn ra theo phương pháp mới. Học sinh chuẩn bị theo câu hỏi hướng dẫn soạn bài. Đến lớp chủ động linh hoạt, tích cực sáng tạo trong hoạt động học tập với không khí vui tươi, sôi nổi và đầy hào hứng. Các em có tinh thần thi đua giữa các tổ, nhóm dần khẳng định mình trong học tập. Tự các em suy nghĩ tạo ra kết quả và khao khát muốn được trình bày. Do đó giáo viên phải kịp thời khích lệ và động viên các em. Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh trong tiết tập làm văn. - Phương pháp điều tra: điều tra phỏng vấn trực tiếp. - Phương pháp giả thuyết. - Phương pháp miêu tả và phân tích. - Phương pháp thảo luận: nhóm, tổ . - Phương pháp miêu tả và biểu cảm. - Kĩ năng giao tiếp. - Kĩ năng tự lập. - Kĩ năng học hỏi . 5.1.Các biện pháp giải quyết vấn đề: Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã thực hiện nắm vững những biện pháp giải quyết vấn đề: Lồng ghép kĩ năng sống vào tập làm văn (tự sự kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm) và đã đạt được kết quả khá tốt như sau: 5.1.1. Giảng dạy văn tự sự kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm: Tập làm văn được coi là một phân môn thực hành tổng hợp sáng tạo đòi hỏi trình độ cao. Dạy tập làm văn là giúp học sinh vận dụng sáng tạo những kiến thức thu được qua các môn học để bày tỏ nguyện vọng suy nghĩ, nhận thức của mình như thuyết phục người đọc, người nghe, thấu hiểu, cảm thông, đồng tình. Góp phần phát triển trí tưởng tượng và óc sáng tạo, biết phân biệt đúng sai, tốt, xấu, phải trái, từ đó nuôi dưỡng tâm hồn các em vươn tới chân, thiện, mĩ. Theo đó bằng trách nhiệm, bằng kinh nghiệm và vốn sống của mình, giáo viên cần từng bước giáo dục kĩ năng sống, rèn luyện cho học sinh tính tự chủ, tự tin trong giao tiếp. Khi trình bày một vấn đề thông qua bài dạy góp phần bồi dưỡng tâm 6 hồn, xây dựng tính cách, phát huy mạnh mẽ năng lực sáng tạo trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách viết của học sinh, từ thực tế cuộc sống và con người thực của các em. Tập làm văn là một quá trình gồm nhiều công đoạn khác nhau như : tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý đến diễn đạt hoàn thiện văn bản và đọc lại văn bản. Quá trình đòi hỏi tính độc lập và sáng tạo cao, đòi hỏi sự vận dụng tri thức và năng lực. Cũng trong quá trình này, học sinh bộc lộ phẩm chất và tâm hồn thực của mình. Bởi vậy, nếu biết tổng hợp tốt phần tập làm văn với các phân môn khác, chúng ta không chỉ góp phần ôn luyện, nâng cao kiến thức, kĩ năng làm văn mà còn tạo thuận lợi để bồi dưỡng năng lực tư duy, hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho học sinh. * Do là môn học thực hành mang tính chất tổng hợp và sáng tạo khi tiếp xúc với đề bài tập làm văn, học sinh thường gặp những khó khăn sau: - Sự nghèo ý, học sinh ít hiểu biết, ít vốn tích lũy về kiến thức văn hóa, về cuộc sống và ít hứng thú về đề bài. - Sự mông lung, lan man trong ý tưởng. - Sự lúng túng trong cách diễn đạt. - Kết quả điều tra: Kĩ năng sống Còn hạn chế Không tốt Tốt Kĩ năng tự lập 51,5% 30,3% 18,2% Kĩ năng giao tiếp 45,4% 27,3% 27,3% Kĩ năng học hỏi 50,6% 29,2% 20,2% 5.1.2 Tìm ra phương pháp dạy học thích hợp cho học sinh: Các em thường thoát li thực tế, thoát li cuộc sống và thiếu độc lập suy nghĩ nên cũng thường rơi vào lối viết văn rập khuôn hoặc sao chép, bắt chước một cách máy móc, vụng về. Các em thường mượn những ý có sẵn. Sở dĩ như vậy, chính bởi vì các em ít chịu tự mình trực tiếp quan sát và nhận thức cuộc sống thực tế, để làm bài văn cho phong phú, sáng tạo và chân thật, tự nhiên. Do đó, qua mỗi bài tập làm văn, khó thấy bộc lộ rõ bản sắc riêng biệt của từng con người cụ thể với cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ và cách diễn đạt riêng của mỗi em. Văn tự sự thường là những văn bản có cốt truyện với các nhân vật, chi tiết và sự kiện tiêu biểu. 7 * Miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự: - Sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong tạo lập văn bản: Phương thức tả và kể kết hợp rất chặt chẽ với nhau. Phương thức tả, kể và biểu cảm cũng thường gắn bó với nhau. - Sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn tự sự: + Trong văn tự sự khi kể thường đan xen các yếu tố miêu tả và biểu cảm. + Các yếu tố miêu tả và biểu cảm làm cho việc kể chuyện sinh động và sâu sắc hơn. Cụ thể: - Miêu tả trong khi kể nhằm làm cho sự việc đang kể thêm sinh động. Màu sắc, hình dáng, diện mạo của sự việc, nhân vật, hành độngnhư hiện lên trước mắt người đọc . - Yếu tố biểu cảm xuất hiện trong khi kể giúp người viết thể hiện rõ hơn thái độ tình cảm của mình trước sự việc đó, buộc người đọc phải trăn trở suy nghĩ trước sự việc đang kể, ý nghĩa của truyện càng thêm sâu sắc hơn. - Xác định các yếu tố kể, tả, biểu cảm trong một văn bản tự sự: + Kể: Thường tập trung nêu sự việc, hành động, nhân vật. + Tả: Thường tập trung chỉ ra tính chất, màu sắc, mức độ của sự vật, nhân vật, hành động. + Biểu cảm: Thường thể hiện ở các chi tiết bày tỏ cảm xúc, thái độ của người viết trước sự việc, nhân vật, hành động. *Viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm: Để viết được đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, cần chú ý một số điểm: - Nòng cốt của đoạn văn tự sự là sự việc và nhân vật chính. - Yếu tố miêu tả, biểu cảm phải dựa vào nhân vật chính để phát triển. Những yếu tố này kết hợp, đan xen, nhiều khi như hòa lẫn trong một đọan văn. Các yếu tố miêu tả, biểu cảm dù chiếm tỉ lệ nhiều hay ít cũng chỉ tập trung làm sáng tỏ cho sự việc cũng như nhân vật chính mà thôi. - Các bước viết một đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm: +Bước 1: Lựa chọn sự việc chính. +Bước 2: Lựa chọn ngôi kể. +Bước 3: Xác định thứ tự kể. 8 +Bước 4: Xác định các yếu tố miêu tả và biểu cảm dùng trong đoạn văn tự sự sẽ viết. +Bước 5: Viết thành đoạn văn kể chuyện, kết hợp các yếu tố miêu tả và biểu cảm sao cho hợp lí. Giáo dục kĩ năng sống giúp học sinh hiểu biết và rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng. Giúp học sinh hiểu biết về xã hội và đời sống nội tâm của con người. Học sinh có năng lực để học tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội và con người. Bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và hoàn thiện nhân cách. * Để giải quyết thực trạng của đề tài tôi đã có những biện pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể, tôi đã tìm hiểu học sinh lớp 8.1 trường trung học cơ sở Trần Quang Khải về chất lượng học văn tự sự của học sinh bằng phương pháp quan sát, phỏng vấn, điều tra. - Tôi quan sát học sinh khi các em học các tiết văn tự sự trước khi thử nghiệm và sau khi áp dụng đề tài, thử nghiệm trên tiết học “Miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự” và sau đó khảo sát mức độ hiểu bài của các em . - Tôi khảo sát kết quả học tập của học sinh để thấy được mức độ lĩnh hội kiến thức của các em. Sử dụng phương pháp điều tra bằng mẫu và thu được kết quả khá tốt. - Tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để rút ra ưu điểm của đề tài. -Tôi đã gặp gỡ học sinh lớp 8.1 trường trung học cơ sở trần Quang Khải qua tiếp xúc, trò chuyện . Dưới đây là bài giảng ứng dụng một số phương pháp trong một tiết dạy văn tự sự tại lớp 8.1 trường trung học cơ sở Trần Quang Khải đã đáp ứng được thực trạng của đề tài đặt ra: - Nêu vấn đề bằng hệ thống câu hỏi phát hiện, tái hiện, huy động kiến thức cũ và mới một cách nhanh nhất . - Độc lập suy nghĩ phát biểu nhận định của riêng cá nhân mang tính tư duy cao qua quá trình soạn bài. - Thảo luận nhóm, tổ tìm ra câu trả lời chung nhất mang tính sáng tạo được đa số thành viên trong nhóm, tổ đồng tình nhất trí. * Việc thảo luận nhóm là cần thiết, là một biện pháp dạy học tích cực nhằm mục đích tạo điều kiện cho học sinh: - Phát triển kĩ năng giao tiếp : lắng nghe, phản hồi, trình bày, ứng xử giao tiếp, cảm thông chia sẻ. 9 - Phát triển kĩ năng tự nhận thức kiến thức môn học: tự tin, tự xác định giá trị của bản thân. - Phát triển kĩ năng hợp tác nhóm: thảo luận, tham gia có hiệu quả. - Học sinh mạnh dạn chủ động giải quyết vấn đề do được sự hỗ trợ của các thành viên trong nhóm và sự khuyến khích của giáo viên. Với môn học Ngữ văn hoạt động nhóm là môi trường thuận lợi để học sinh cùng nhau bàn bạc thảo luận là biện pháp tích cực để khai thác những hướng khác nhau. Giáo viên có cơ hội phát hiện vốn sống, đặc điểm tâm lý khả năng tiếp nhận của học sinh. Qua đó hỗ trợ kịp thời cho từng đối tượng. * Quá trình hoạt động nhóm: - Thành lập nhóm. - Hoạt động nhóm (cả nhóm tập trung đưa ra ý kiến cá nhân, thảo luận, thống nhất, sau đó đại diện nhóm ghi chép). - Đại diện nhóm hay cá nhân trong nhóm thông báo kết quả trước lớp. - Giáo viên theo dõi, quản lý học sinh làm việc nhóm, điều khiển từng nhóm báo cáo kết quả trước lớp hay trên giấy lớn còn các nhóm khác bổ sung. - Kết luận vấn đề giáo viên tóm tắt khái quát kết quả đạt được, giúp học sinh tự nhận xét, đánh giá quá trình làm việc của mình để ghi nhận kiến thức đúng. * Minh họa tiết dạy cụ thể: TUẦN 6 - Tiết 24 : Tập làm văn MIÊU TẢ VÀ BIỂU CẢM TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ I. MỤC TIÊU BÀI HỌC: giúp HS 1. Kiến thức: - Vai trò của yếu tố kể trong văn bản tự sự. - Vai trò của các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong văn bản tự sự. - Sự kết hợp các yếu tố miêu tả và biểu lộ tình cảm trong văn bản tự sự. 2. Kỹ năng: - Nhận ra và phân tích được tác dụng của các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong một văn bản tự sự. - Sử dụng kết hợp các yếu miêu tả và biểu cảm trong làm văn tự sự. 3. Thái độ: 10 - Yêu thích môn tập làm văn. - Bình tĩnh, tự tin khi đứng trước tập thể. 4. Phát triển năng lực: - Năng lực tạo lập văn bản. - Năng lực hợp tác. II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH 1. Chuẩn bị của giáo viên - Giáo án, sách giáo khoa, sách giáo viên, bảng phụ. 2. Chuẩn bị của học sinh - Soạn bài theo hướng dẫn của GV. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: - Thế nào là tóm tắt văn bản tự sự? - Khi tóm tắt văn bản tự sự cần chú ý điều gì? 3. Bài mới: Trong một văn bản tự sự, nếu chỉ có sự việc, nhân vật, hành động đơn thuần thì văn bản trở nên khô khan và cứng nhắc. Bởi vậy để văn bản tự sự trở nên hấp dẫn, hình dáng sự việc và nhân vật thêm sinh động và để bộc lộ tình cảm của người viết trước những sự việc và nhân vật thì đòi hỏi văn tự sự phải có kết hợp của yếu tố miêu tả và biểu cảm. HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG GHI BÀI A. A. Hoạt động khởi động Trong các văn bản “ Tôi đi học”, “Trong lòng mẹ”, tác giả đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào? - Các phương thức: Tự sự + miêu tả + biểu cảm => GV dẫn dắt vào bài. B. Hoạt động hình thành kiến thức ?Theo em thế nào là kể, miêu tả và biểu cảm? - Kể: tập trung nêu sự việc, hành động I. Sự kết hợp các yêu tố kể, tả và biểu lộ tình cảm trong văn bản tự sự: 11 nhân vật. - Tả: Chỉ ra tính chất, màu sắc và mức độ của sự việc, hành động của nhân vật . - Biểu cảm: bày tỏ cảm xúc thái độ của người viết. Cho học sinh đọc đoạn văn sgk/72 ? Em hãy xác định yếu tố tự sự có trong đoạn văn? -Kể lại cuộc gặp gỡ cảm động của nhân vật “tôi” với người mẹ đã xa cách lâu ngày. ? Tìm và chỉ ra các yếu tố miêu tả được dùng trong đoạn văn? Học sinh tìm - Giáo viên nhận xét, sửa sai. - Tôi thở hồng hộc, trán đẫm mồ hồi, ríu cả chân - Mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá như cô tôi nhắc - Gương mặt mẹ tươi sáng, đôi mắt trong, nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má. ? Tìm và chỉ ra yếu tố biểu cảm được dùng trong đoạn văn? Học sinh tìm - Giáo viên nhận xét, sửa sai. - Hay tại sự sung sướng như thuở còn sung túc? - Tôi thấy những cảm giác ấm áp mơn man khắp da thịt - Phải bé lại êm dịu vô cùng ? Các yếu tố này đứng riêng hay đan xen với yếu tố tự sự. -Các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm không đứng tách riêng mà đan xen vào nhau một cách hài hòa để tạo nên mạch văn nhất quán. 1. VD: Xét đoạn văn sgk/72 a. Yếu tố miêu tả: - Tôi thở hồng hộc, trán đẫm mồ hồi, ríu cả chân - Mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá như cô tôi nhắc - Gương mặt mẹ tươi sáng, đôi mắt trong, nước da mịn làm nổi bật màu hồng của hai gò má. b. Yếu tố biểu cảm: - Hay tại sự sung sướng như thuở còn sung túc? - Tôi thấy những cảm giác ấm áp mơn man khắp da thịt - Phải bé lại êm dịu vô cùng -> Các yếu tố tự sự, miêu tả và biểu cảm đan xen nhau. 12 ? Bỏ hết các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong đoạn văn trên, sau đó chép lại các câu văn kể người và việc thành một đoạn. Đối chiếu đoạn văn đó với đoạn văn trên và rút ra nhận xét: Nếu không có các yếu tố miêu tả và biểu cảm thì việc kể chuyện trong đoạn văn sẽ ảnh hưởng như thế nào? -Đoạn văn khô khan không gây xúc động cho người đọc. ? Từ đó rút ra kết luận về vai trò, tác dụng của yếu tố miêu tả và biểu cảm trong việc kể chuyện? Học sinh tự bộc lộ, nhận xét. - Vai trò: Miêu tả, biểu cảm làm cho đoạn văn hấp dẫn, sinh động, khiến người đọc phải suy nghĩ, liên tưởng. ? Bỏ hết các yếu tố kể trong đoạn văn trên, chỉ để lại câu văn miêu tả và biểu cảm thì đoạn văn sẽ bị ảnh hưởng ra sao Học sinh làm và rút ra nhận xét. - Đoạn văn không còn các sự việc, nhân vật, không còn câu chuyện và trở nên vu vơ khó hiểu. ? Từ đó em hãy rút ra nhận xét về vai trò của yếu tố tự sự trong văn bản tự sự? - Không còn là văn bản tự sự. HS đọc ghi nhớ. C. Hoạt động luyện tập Cho học sinh đọc bài tập 1. Xác định yêu cầu bài tập. Giáo viên cho học sinh hoạt động nhóm. Mỗi nhóm làm một văn bản khác nhau, đoạn văn khác nhau. - Nhóm 1 + 2 : Tìm yếu tố miêu tả và biểu cảm trong đoạn văn tự sự “Tôi đi - Các yếu tố miêu tả, biểu cảm làm cho việc kể chuyện sinh động và sâu sắc hơn. 2. Ghi nhớ: Sgk/74 II. Luyện tập: Bài tập 1: a. Tìm một số đoạn văn từ trong 3 văn bản. - Tôi đi học. - Tức nước vỡ bờ. - Lão Hạc. 13 học”. - Nhóm 3 + 4 : Văn bản “Tức nước vỡ bờ”. - Nhóm 5 + 6 : Văn bản “Lão Hạc” Đại diện các nhóm trình bày bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét - Giáo viên đánh giá cuối cùng, cho điểm các nhóm. (Lưu ý phân tích giá trị của yếu tố miêu tả, biểu cảm) Cho học sinh đọc bài tập 2. Xác định yêu cầu bài tập. Học sinh làm cá nhân. Giáo viên hướng dẫn, gợi ý cách làm bài cho học sinh. Chấm sửa một số bài - cho điểm. D. Hoạt động vận dụng và tìm tòi mở rộng Tìm đọc các đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm. b. Xác định yếu tố miêu tả và biểu cảm trong các đoạn văn. c. Phân tích giá trị của các yếu tố đó. Bài tập 2 : a. Viết đoạn văn kể về những giây phút đầu tiên khi em gặp lại một người thân (ông bà, bố mẹ, anh chị em,) sau một thời gian xa cách. b. Tìm yếu tố miêu tả và biểu cảm trong đoạn văn. c. Phân tích giá trị của các yếu tố đó. 4. Hướng dẫn về nhà a/ Bài cũ: - Học bài . Hoàn tất BT2 vào vở b/ Bài mới: Soạn bài: Văn bản “Đánh nhau với cối xay gió”. - Đọc văn bản, trả lời các câu hỏi phần đọc-hiểu văn bản/ sgk - Phân tích cặp nhân vật tương phản Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa. 5.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến Qua những kiến thức trên, tôi đã giúp học sinh bồi dưỡng tâm hồn, xây dựng tính cách trên cơ sở phát huy mạnh mẽ năng lực sáng tạo trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, nói và vi
Tài liệu đính kèm: