Mỗi tác phẩm có một giọng điệu riêng. Nắm bắt đúng giọng điệu của tác phẩm chính là nắm bắt đúng tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tác phẩm trữ tình cần đọc khác với tác phẩm tự sự; đọc đoạn đối thoại khác đoạn độc thoại nội tâm; đọc văn tả khác đọc văn kể, văn tường thuật; đọc văn chính luận khác với đọc bài tùy bút Tuỳ từng văn bản cụ thể mà giáo viên và học sinh có thể chọn cho mình một “tông giọng” phù hợp.
chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng: “giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả. Hiểu như vậy giảng văn trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư tưởng trong một tác phẩm văn chương” (Giảng văn Chinh phụ ngâm- Đặng Thai Mai- ĐHSPI HN; 1992). Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trình độ, khả năng của học sinh. Vậy thì việc đầu tiên theo tôi người thầy dạy văn cần phải làm đó là phải bằng mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình cảm thụ tác phẩm văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể đó là giọng đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước dí dỏm khi tiếp cân tác phẩm trào phúng, giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu thương... đó có thể là những lời bình đúng lúc, hoặc có thể đó còn là một hệ thống câu hỏi phù hợp yêu cầu học sinh phải suy nghĩ, phán đoán mở ra hướng cảm nhận tác phẩm hiệu quả nhất...Trong đề tài nghiên cứu lần này, tôi mạnh dạn đề cập một số kỹ năng cần chú ý để góp phần nâng cao khả năng cảm thụ tác phẩm văn học cho học sinh bậc THCS như sau: Hình thành thói quen đọc trực tiếp văn bản Muốn nắm bắt được nội dung tác phẩm văn học nhất thiết phải đọc. Đó là một hình thức đặc thù, có tính tính đặc thù của nhận thức văn học. Đọc sẽ kích thích quá trình tâm lí cảm thụ, tri giác tưởng tượng, xúc cảm, đưa người đọc vào thế giới tác phẩm. Đọc tác phẩm văn học là đọc cho sáng rõ ý nghĩ, tình cảm, thái độ của nhà văn bằng sức mạnh riêng của việc đoc diễn cảm, người giáo viên dẫn dắt học sinh vào thế giới của tác phẩm văn học một cách dễ dàng, phù hợp với quy luật cảm thụ văn học. Hướng dẫn học sinh đọc đúng giọng điệu là thể hiện được cung bậc cảm xúc của tác giả. GS Trần Đình Sử trong bài Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy-học văn khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của môn văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”. Đáng tiếc là nhiều năm nay, trong nhà trường phổ thông đang diễn ra tình trạng học sinh không cần đọc trực tiếp văn bản nhưng vẫn soạn được bài, thậm chí khi thầy cô giáo yêu cầu “hoạt động nhóm” và cử đại diện trình bày, các em vẫn tỏ ra làm việc tích cực và phát biểu một cách gọn gàng. Giáo viên, dù biết rõ học sinh đang trong vai diễn, nhưng vẫn cứ khen trò của mình trả lời rất tốt, rất giỏi! Việc học sinh xem nhẹ đọc tác phẩm đã làm hạn chế khả năng cảm thụ và sáng tạo của chính mình, từ đó khiến cho học sinh chỉ biết tiếp thu một cách thụ động, mất dần kĩ năng đọc hiểu văn bản, thiếu năng lực đọc một cách sáng tạo. Như vậy, mấu chốt của vấn đề nâng cao hiệu quả cảm thụ văn học chính là ở việc đọc trực tiếp văn bản văn học. Học sinh thường ngại đọc tác phẩm khi soạn bài, lý do chưa hẳn là vì tác phẩm không hay hoặc học sinh không thích văn học. Đơn giản vì các em phải học quá nhiều môn học. Ngoài ra, lối sống thực dụng trong xã hội hiện nay cũng có một tác động không nhỏ đến điều này. Kết quả khảo sát những năm gần đây cho thấy, hầu hết học sinh đều định hướng thi vào các trường Đại học thuộc khối ngành kinh tế, kỹ thuật, công nghệ Rất ít học sinh chọn thi vào các trường thuộc khối ngành khoa học xã hội & nhân văn. Học văn, theo đó luôn trong tình trạng đối phó của các em. Tài liệu tham khảo đã trở thành cẩm nang trong mọi tình huống. Nhận thức được điều đó, tôi thường yêu cầu học sinh tóm tắt tác phẩm trước bằng lập sơ đồ, bảng biểu, sau đó kiểm tra thực hiện của học sinh trong thời gian hỏi bài cũ. Ví dụ: Chuẩn bị cho bài Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang- Ngữ văn 9 tập 2, tôi yêu cầu học sinh lập bảng: - Bảng 1: Tìm hiểu tác giả Đe-ni-ơn Đi-phô và tác phẩm Rô –bin-xơn Cru-xô (Yêu cầu: Học sinh tìm hiểu và hoàn tất các thông tin về tác giả... về thời gian ra đời, nội dung và đặc điểm thể loại của tác phẩm...) - Bảng 2: Vẽ sơ đồ tóm tắt tác phẩm, sơ đồ bố cục đoạn trích Ban đầu, việc làm này chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt thành, nhưng dần dần đã trở thành việc làm bình thường và có hiệu quả. Thói quen này nếu được hình thành một cách tự giác thì chính giáo viên, học sinh đã làm được một khâu quan trọng trong yêu cầu đọc - hiểu. Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm Đọc diễn cảm là một phương pháp đọc sáng tạo: Từ biết đọc - đến đọc sáng tạo là cả một quá trình rèn luyện đòi hỏi người dạy và người học phải có sự nỗ lực rất lớn. a) Phương pháp đọc sáng tạo: là phương pháp tiếp nhận nghệ thuật tác phẩm nghệ thuật ngôn từ một cách sáng tạo chủ yếu bằng sự cảm thụ trực tiếp tác phẩm: phương pháp đọc sáng tạo bao gồm hệ thống biện pháp, cách thức tổ chức hướng dẫn giảng dạy của giáo viên và những hình thức hoạt động của học sinh. Bản chất của đọc sáng tạo trước hết là đọc lời văn, đọc văn bản ngôn từ của tác phẩm, nó khác với loại văn bản khác phải chú ý đến từng từ, từng câu, từng nhịp điệu, âm hưởng để gây cảm xúc với người đọc, người nghe. b) Nội dung của phương pháp đọc sáng tạo: có 3 mức độ đọc đó là đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. - Đọc đúng: là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản. Đọc đúng là giải quyết kĩ năng, năng lực ngôn ngữ cho học sinh, là không được đọc sai văn bản, là quá trình tri giác chính xác văn bản. - Đọc hay: là bước tiếp theo của đọc đúng, phải trên cơ sở đọc đúng, đọc hay mới thành công. Đọc hay là bước đầu chuyển tiếp từ lĩnh vực ngôn ngữ sang lĩnh vực văn chương. Đọc đúng có nghĩa là đọc nghĩa còn đọc hay là đọc ra ý. Khi giảng văn thơ, điều quan trọng là nắm bắt được giọng điệu văn học, tức là đọc được hướng vào giọng điệu của văn bản. - Đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là hệ thống phương pháp đọc sáng tạo, bản chất của đọc sáng tạo là xác định mọi quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc về giá trị nội dung và hình thức đọc của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải có cảm xúc. Đọc diễn cảm có tác dụng phát triển trí tuệ cho học sinh, thông qua việc đọc diễn cảm giúp học sinh khám phá tác phẩm văn chương, giúp học sinh hiểu rõ được giá trị đích thực của tác phẩm văn học. Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mĩ cho các em học sinh, giúp các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học làm cho các em yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc diễn cảm. Cùng quan điểm với GS Trần Đình Sử, cố GS Hoàng Ngọc Hiến nhấn mạnh yêu cầu cần đạt được của việc đọc văn bản là phải nắm bắt trúng giọng điệu của tác phẩm. Theo ông, “Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên” Tục ngữ có câu: “Ăn không nên đọi, nói không nên lời”. “Nói không nên lời” là một sự đau khổ của con người. Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực nói nên lời. Không biết đọc diễn cảm, không tìm được ngữ điệu thích đáng trong giảng bài, đó là sự bất lực của người dạy văn. Có nhiều giáo viên có kiến thức, nhưng khi giảng bài, học sinh thấy chán, buồn ngủ, bởi vì giáo viên đó thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa tìm được ngữ điệu, giọng điệu thích đáng cho mình. Như vậy, người dạy văn giỏi, ngoài kiến thức cần phải có ngữ điệu, giọng điệu phù hợp, đa dạng. Có như vậy tác phẩm mới tác động sâu vào cảm nhận của học sinh. Đọc diễn cảm và hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm tác phẩm văn học chính là một phần quan trọng để phát huy tiềm lực, kích thích hứng thú học văn của học sinh. Mỗi tác phẩm có một giọng điệu riêng. Nắm bắt đúng giọng điệu của tác phẩm chính là nắm bắt đúng tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tác phẩm trữ tình cần đọc khác với tác phẩm tự sự; đọc đoạn đối thoại khác đoạn độc thoại nội tâm; đọc văn tả khác đọc văn kể, văn tường thuật; đọc văn chính luận khác với đọc bài tùy bút Tuỳ từng văn bản cụ thể mà giáo viên và học sinh có thể chọn cho mình một “tông giọng” phù hợp. Có thể xem đọc diễn cảm là nghệ thuật của trình diễn. Đọc diễn cảm không phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Thơ là âm vang của cảm xúc. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc, làm cho nó ngân nga trong hồn người. Đọc ở đây là thể hiện sự cảm thụ và thể nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác cũng có thể sản sinh những ấn tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn. Khi còn là sinh viên khoa văn, tôi được một thầy giáo của mình đọc cho nghe bài thơ Quê hương của Giang Nam. Phần đầu của bài thơ thầy đọc chậm rãi (như đang nhấm nháp những kỉ niệm ngọt ngào tuổi ấu thơ): /Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường/Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/.Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi/Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng.. đến đoạn người lính trở về, nhận được tin cô gái mấtthầy chuyển giọng đột ngột: Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ-vì-em-là-du-kíchem ơi Đau-xé-lòng-anh..chết- nửa- con- người”. Nhịp điệu dồn dập đó nói lên nỗi đau bất ngờ, bàng hoàng, không thể tin được trước một sự thật đau lòng. Thầy không cần giảng giải nhiều nhưng lũ học trò chúng tôi ai cũng đỏ hoe con mắt. Cho đến bây giờ, nỗi xúc động đến lạnh người trong tôi vẫn còn nguyên khi nhớ về bài học và giọng đọc của thầy tôi năm đó. Đó chính là hiệu quả của ngữ điệu đọc mà người thầy mang lại cho học trò của mình. Khi rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, dù chỉ trong một thời gian ngắn trong tổng số 45 phút của tiết học, tôi thường lưu ý cho học sinh về cách đọc từng loại văn bản. Khi một học sinh đọc diễn cảm một văn bản nào đó, tôi cho rằng, học sinh đõ đã hiểu được giá trị của văn bản ít nhất là 50 %. Ví dụ bài Đồng chí của Chính Hữu - Ngữ văn 9 tập 1, phải đọc hơi chậm để diễn tả những tình cảm, cảm xúc được dồn nén, lắng lại: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Nhưng đến ba dòng thơ cuối bài, cần đọc với nhịp chậm hơn và hơi lên cao để khắc hoạ được những hình ảnh vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa biểu tượng: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật - Ngữ văn 9, ta phải đọc sao cho toát lên cái vẻ tự nhiên, ngang tàng, sôi nổi của tuổi trẻ dũng cảm, bất chấp những nguy hiểm khó kh Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Khi đọc bài Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái Quốc, Ngữ văn 7, tập 2, cần thay đổi giọng điệu cho phù hợp với từng đoạn: mỉa mai khinh bỉ khi nói về những trò lố của Va-ren, tự hào, ngợi ca ở những đoạn miêu tả thái độ hiên ngang của Phan Bội Châu Đọc văn bản Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang phải thể hiện được giọng điệu hóm hỉnh, tự giễu của Rô-bin-xơn khi kể về cuộc sống và tự hoạ bức chân dung của mình, có như vậy mới hiểu được tinh thần lạc quan vượt hoàn cảnh của vị chúa đảo này. Việc đọc diễn cảm của người giáo viên dạy văn có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn học sinh thâm nhập tác phẩm, nên người thầy cẩn phải có sự chuẩn bị kĩ, thầy phải đọc đúng, đọc hay, đọc thật diễn cảm, bộc lộ được cảm xúc của nhà văn. Người giáo viên có thể có nhiều hình thức hướng dẫn học sinh đọc: đọc mẫu, hướng dẫn học sinh đọc, vừa đọc vừa bình vừa tóm tắt tác phẩm, đọc phân vai, khơi gợi cảm xúc của các em, khích lệ các em đọc một cách hứng thú Bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hứng thú, giúp các em có cảm nhận mới mẻ về văn bản, kích thích khả năng liên tưởng, trí tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Có thể nói, rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm là biện pháp hữu hiệu trong rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh. 3. Rèn kỹ năng tóm tắt văn bản Sau khi học sinh đã đọc và nắm được nội dung tác phẩm giáo viên hướng dẫn HS tóm tắt văn bản đây là một khâu không thể thiếu trong phần tiếp nhận văn bản. Vậy, tóm tắt văn bản là gì ? a.Tóm tắt văn bản là trình bày lại một nội dung của một văn bản gốc theo một mục đích đã định trước.VB tóm tắt thường ngắn hơn so với VB gốc.Việc lựa chọn thông tin để đưa vào văn bản tóm tắt phụ thuộc vào mục đích tóm tắt. Mục đích tóm tắt là nhân tố hàng đầu chi phối việc tóm tắt văn bản.Tuy nhiên, văn bản tóm tắt phải mang tính khách quan, phản ánh trung thực văn bản gốc. Từ đó, học sinh nắm được cái cốt lõi của câu chuyện. Một số lưu ý khi tóm tắt văn bản: - Diễn đạt càng ngắn gọn, càng súc tích càng tốt, loại bỏ những thông tin không cần thiết đối với mục đích tóm tắt. - Văn bản tóm tắt phải luôn phản ánh trung thực nội dung văn bản gốc, không thêm thắt những nội dung không có trong văn bản gốc. - Người tóm tắt cần diễn đạt theo cách riêng của mình, tránh đến mức tối đa dùng lại các câu, đoạn trong văn bản gốc. Nên dùng câu đủ thành phần. b. Một số kĩ năng cần áp dụng trong tóm tắt văn bản: - Xác định ý chính, nội dung của mỗi đoạn văn và văn bản. - Diễn đạt lại các ý chính và nội dung đó bằng một vài câu thích hợp. - Dùng các từ ngữ thích hợp để liên kết các câu lại với nhau thành một văn bản nhỏ. Riêng đối với các văn bản thơ, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thuộc lòng bài thơ, diễn xuôi được ý thơ trước khi đến lớp 4. Sử dụng lời bình Bình văn là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với tác phẩm. Một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có khả năng đánh thức liên tưởng của học sinh, là con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật văn bản, góp phần nâng cao giá trị thẩm mỹ của bài văn, bài thơ, khơi dậy ở trái tim non trẻ của các em tình yêu con người và cuộc đời để các em biết ghét cái ác, cái xấu hướng tới chân, thiện mỹ. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu,cộng hưởng về tình cảm trong giờ văn. Ví dụ: Khi giảng đến dòng thơ cuối trong bài Đồng chí của Chính Hữu: “Đầu súng trăng treo”, Giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh phát hiện: Hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng Trăng là người bạn của những người lính trong cảnh phục kích giặc giữa rừng khuya Trăng đối lập với súng Trăng biểu tượng cho cuộc sống hoà bình Đây là hình ảnh thơ sáng tạo Học sinh trình bày được những ý như vậy đã là hay, nhưng nếu giáo viên biết đưa vào một lời bình ngắn gọn, đúng lúc thì hiệu quả thẩm mĩ của giờ học sẽ tăng lên đến bất ngờ. Chẳng hạn, ở đây, giáo viên có thể đưa ra lời bình “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích giặc của chính tác giả. Nhưng hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra bởi những liên tưởng phong phú. Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ... Đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hoà với nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Xa hơn, đó cũng có thể xem là biểu tượng cho thơ ca kháng chiến - nền thơ ca có sự kết hợp giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.” Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản, nhưng giáo viên không được lạm dụng biện pháp này. Bởi lẽ, nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ không phải là trổ tài trình diễn để “thôi miên” học sinh. Do đó, giáo viên chỉ đưa ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ. Giáo viên phải chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật, và chọn được cách nói ấn tượng, độc đáo, nhằm tác động mạnh đến cảm xúc của học sinh. 5. Để nâng cao khả năng cảm thụ tác phâm văn chương cho học sinh, không chỉ dừng lại ở những thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả thầy lẫn trò một cách học, cách dạy hợp lý, khoa học, linh hoạt, không phải bài nào cũng giảng và liên tưởng theo một cách, không phải tác giả tác phẩm nào cũng một dạng lời bình mà phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, tác phẩm cụ thể để hướng dẫn học sinh cách cảm thụ, cách phát hiện. Về phía học sinh, theo tôi nếu cầu toàn 100% học sinh đều cảm thụ tốt tác phẩm văn học bằng tư duy của các em thì khó mà đạt được. Vì vậy phải tùy đối tượng, tùy năng lực cảm thụ văn học của từng đối tượng mà hướng dẫn chỉ đạo các em phát hiện sáng tạo phù hợp: Hệ thống câu hỏi đặt ra phải linh hoạt, phải có sự phân chia đối tượng, có câu hỏi khó cho học sinh giỏi, câu hỏi phù hợp cho học sinh trung bình...Có thế một giờ giảng văn mới đảm bảo được cùng lúc sự sáng tạo cho các em. Có học sinh đã tâm sự với cô giáo cũ của mình rằng: “Thưa cô, con rất sợ học môn vănThứ nhất, con đang cảm thấy bị dồn ép, bị đẩy vào những thứ rập khuôn, làm con không còn cảm thấy hứng thú với môn học này nữa. Thứ hai là, những văn bản trong sgk hầu như sặc mùi cách mạng, con không sống trong thời đó nên cảm nhận của con về những năm tháng ấy còn mập mờ, mông lung lắm. Thứ ba là, giáo viên văn trong lớp của con chẳng những không tạo cho con có được cảm giác thích thú mà còn làm cho con cảm thấy ngán ngẫm giờ văn. Có đôi khi, con tự đọc văn bản trước ở nhà, cảm thấy rất hay, nhưng khi được giáo viên trong lớp giảng giải thì bao nhiêu cái hay ho nó trôi đi đâu mất”. Những dòng tâm sự hết sức chân thành của một học sinh mà tôi chưa từng gặp mặt đã khiến tôi giật mình. Liệu đây có phải là tâm trạng chung của các em khi học môn văn? Làm thế nào để có thể thắp sáng ngọn lửa tình yêu văn chương trong tâm hồn học sinh? Làm thế nào để có thể đánh thức khả năng cảm thụ văn chương, thổi bùng khát vọng sống đẹp của học sinh qua mỗi giờ học văn? Đưa lời tâm sự của học sinh ra đây để những người trực tiếp giảng dạy văn học là chúng ta cùng suy nghĩ và chia sẻ, hi vọng những lời tâm sự của em học sinh đó không rơi vào hư không. Thiết nghĩ muốn làm được những điều trên, trước hết, người thầy phải thổi bùng ngọn lửa văn chương trong trái tim của mình. Chúng tôi luôn ý thức sâu sắc rằng, đây không phải là phương pháp toàn vẹn, và càng không phải là duy nhất, nhưng hiệu quả mang lại của nó là điều không thể phủ nhận. Phương pháp khi được vận dụng thành thục sẽ tạo được kĩ năng cho người dạy và người học. Từ đó, niềm hứng thú, say mê khám phá của học sinh sẽ được đánh thức. Khi thói quen trở thành ý thức tự giác của người học thì đến lượt mình, người thầy không thể bằng lòng với những vốn kiến thức có sẵn mà phải luôn không ngừng cập nhật tri thức và đổi mới phương pháp. Với mong muốn góp phần nâng cao khả năng cảm thụ tác phẩm văn chương cho học sinh trong giờ đọc hiểu môn văn, tôi mong nhận được sự trao đổi, góp ý chân thành của đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề này. II. Minh hoạ đọc - hiểu tác phẩm: Tiết 146: ( Bài dự thi giáo viên giỏi cấp quận) Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang (Trích Rô-bin-xơn Cru-xô) - Đ. Đi-phô - 1) Những yêu cầu cần đạt: Học sinh hình dung được cuộc sống gian khổ và tinh thần lạc quan của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang qua bước chân dung tự hoạ của nhân vật 2) Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm thụ văn bản thông qua đọc diễn cảm và tóm tắt tác phẩm: a. Hướng dẫn học sinh cảm thụ văn bản thông qua đọc diễn cảm và tóm tắt tác phẩm: - Giáo viên yêu cầu học sinh tìm đọc tác phẩm ở nhà, tóm tắt đư
Tài liệu đính kèm: