Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường:
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn tìm cái đó ta cần biết gì?
- Cái này biết chưa?
- Còn cái này thì sao?
- Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào?
Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán.
Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp.
em làm bài gần như theo khuôn mẫu, ít sai sót. Nếu hướng dẫn học sinh luyện tập song song cả hai kiểu bài hoặc học xong cả hai kiểu bài rồi, các em mà không nắm vững sẽ sai nhầm dễ dàng. Điều này sẽ xảy ra với các em học lực trung bình, trung bình yếu. Cho nên, việc nghiên cứu phương pháp giúp các em giải tốt dạng toán này ở lớp 3 sẽ phải dần từng bước được khắc phục, đổi mới, kích thích học theo nhận thức chủ đạo của học sinh thì chất lượng mới cao, phát huy tính tư duy, độc lập, sáng tạo ở tất cả học sinh. Khi tiến hành nghiên cứu, tôi thường sử dụng các phương pháp sau: 1. Phương pháp nghiên cứu, lí luận: - Đọc các tài liệu cần thiết. - Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, chương trình liệu bồi dưỡng giáo viên , sách tham khảo. 2. Phương pháp điều tra quan sát. - Truyền đạt , phỏng vấn giáo viên. - Điều tra học sinh, các loại vở bài tập. 3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả: - Kiểm tra chất lượng qua mỗi giai đoạn. - Thống kê kết quả ở từng giai đoạn. B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận: Quá trình dạy học Toán 3 phải góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập và làm việc tích cực, chủ động, khoa học, sáng tạo cho học sinh. Cho nên, giáo viên cần tổ chức hoạt động học tập thường xuyên tạo ra các tình huống có vấn đề, tìm các biện pháp lôi cuốn học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ năng vấn đề đó, huy động các kiến thức và các công cụ đã có để tìm ra con đường hợp lí nhất giải đáp từng câu hỏi đặt ra trong qua trình giải quyết vấn đề, diễn đạt các bước đi trong cách giải, tự mình kiểm tra lại các kết quả đã đạt được, cùng các bạn rút kinh nghiệm về phương pháp giải. Tuy nhiên, để tổ chức được các hoạt động học tập, giáo viên cần xác định được: Nội dung toán cần cho học sinh lĩnh hội là gì? Cần tổ chức các hoạt động như thế nào? Mặt khác, nội dung dạy giải toán ở lớp 3 được sắp xếp hợp lí, đan xen và tương hợp với mạch kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Dạy học giải toán có lời văn là một trong những con đường hình thành và phát triển trình độ tư duy của học sinh. Các em biết phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Tuy nhiên, giáo viên phải chủ động tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh “ khám phá” tự phát hiện và tự giải quyết bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các kiến thức liên quan đã học, với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ sở để các em học giải tốt dạng toán rút về đơn vị nói riêng, học giải dạng toán hợp nói chung. 2. Thực trạng : Tôi đang công tác một ngôi trường đóng trên địa bàn một phường thuộc thị xã Buôn Hồ. Tuy là thị xã nhưng người dân ở đây chủ yếu là làm nông. Nguồn thu nhập chủ yếu là cây nông nghiệp, một số hộ buôn bán nhỏ. Đời sống kinh tế còn khó khăn do mặt hàng nông sản của người dân làm ra quá rẻ, trình độ học vấn của người dân chưa đồng đều, nên việc học của học sinh vẫn còn nhiều trăn trở. Năm học 2018- 2019, trường có tổng số học sinh là 467 em, khối 3 là 93 em.Được sự quan tâm cua ban giám hiệu nhà trường nên đã phân côn tôi chủ nhiệm lớp 3a1.Tổng số học sinh là 33 em, nữ 12 em, dân tộc thiểu số 1 em, hộ nghèo, hộ khó khăn 7 em. Một số em ở với ông bà nội, ngoại nên tôi thấy việc học của các em còn hạn chế. Trong thời gian tôi giảng dạy, tôi theo dõi học sinh học Toán, đặc biệt là hai năm gần đây, tôi trực tiếp theo dõi các em học sinh lớp 3 giải toán nói riêng, tôi thấy các em có một thói quen không tốt cho lắm đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả, khi trả bài các em mới biết là mình sai. Đối với dạng toán này, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em làm bài khá tốt, ít nhầm lẫn, nhưng còn sai nhiều trong tính toán, đến khi dạy xong kiểu bài 2, các em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực hiện ở các bước 2 đáng lẽ là phép chia thì các em lại làm phép nhân ( giống ở kiểu bài 1). Song tôi đã để ý, quan sát các em làm bài ở lớp mỗi khi dự giờ, thăm lớp, các em đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra. Để nắm được thực trạng học sinh lớp 3 giải dạng toán này cụ thể như thế nào, tôi đã tiến hành ra hai bài toán, thuộc hai kiểu bài của dạng toán này như sau rồi cho các em làm bài trong thời gian là 20 phút để nắm được kết quả. Bài toán 1: Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 36 kg gạo. Hỏi 4 bao gạo như thế có thể chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo? Bài toán 2: Có 42 lít dầu đựng vào 6 can. Hỏi có 84 lít dầu thì cần có bao nhiêu can như thế để đựng? Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả các em làm bài như sau: - Có nhiều em làm đúng cả 2 bài. - Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại. Một số em có tính sai. Còn một vài em sai cả 2 bài. * Qua khảo sát đầu năm của lớp3A1 như sau: Tổng số HS HTT HT CHT SL % SL % SL % 33 6 18 19 57 8 25 * Nguyên nhân có kết quả như vậy là do phần lớn các em còn chủ quan khi làm bài, chưa nhớ kĩ các phương pháp giải dạng toán này. Mặt khác, cũng có thể là các em chưa được củng cố rõ nét về 2 kiểu bài trong dạng toán này nên sự sai đó không tránh khỏi. Còn nữa, đây là các bài toán áp dụng rất thực tế mà các em quên mất phương pháp thử lại nên kết quả đưa ra rất đáng tiếc. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp: Xuất phát từ tình hình thực tế của năm 2017- 2018, năm học 2018-2019 tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy dạng toán này. Mục đích chính giúp các em có phương pháp giải toán nói chung, phương pháp giải dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. Làm cho các em biết chủ động thực hiện giải toán không rập theo khuôn máy móc mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp từ bản thân. Tôi lần lượt nghiên cứu phương pháp dạy giải dạng toán này theo các kiểu bài với từng bước sau: Bước 1: Giúp các em nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán. Bước 2: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân. Bước 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị bằng hai phép chia. Bước 4: Luyện tập, so sánh cách giải và củng cố kiến thức cho học sinh. Để giải quyết được nhiệm vụ trên, tôi càng bám sát vào các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học toán ở Tiểu học nói chung, của lớp 3 nói riêng sao cho phù hợp và nhận thức của học sinh, các em có hứng thú tốt khi học tốt, tạo không khí lớp học sôi nổi, chất lượng cao. a. Mục tiêu của giải pháp: Muốn cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trước tiên chúng ta phải hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải toán nói chung đã. * Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán: Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. * Bước 2: Tóm tắt đề toán. * Bước 3: Phân tích bài toán. * Bước 4: Viết bài giải. * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh: * Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. * Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu. * Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. * Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. * Cách 5: Tóm tắt băng kẻ ô. Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất, điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: - Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Cái này biết chưa? - Còn cái này thì sao? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào? Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. b. Nội dung và cách thức, thực hiện các giải pháp: Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: b1. Hướng dẫn học sinh làm kiểu bài 1: 1. Chia sẻ ứng dụng: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần truyền đạt, tôi ra đề như sau: “Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật ong?” Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau: Bài giải. Bảy can như vậy chứa được số lít mật ong là: 5 x 7 = 35 ( l) Đáp số: 35 l mật ong. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán. 2. Bài mới: * Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học. * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 l mật ong chia đểu vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đầu bài( 3 em). - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán ( sử dụng phương pháp hỏi đáp): + Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can). + Bài toán hỏi gì? ( 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong). + Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng: 7 can: 35 l 1 can: l ?. - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. - Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con. - Giáo viên đưa bài giải đối chiếu. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Đáp số: 5 l mật ong. - Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? ( phép tính chia). - Giáo viên giới thiệu. Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can, chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần. - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp dụng, củng cố như: 5 bao: 300kg hoặc 3 túi: 15 kg 1 bao: kg? 1 túi: kg? * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong? - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài ( 3 lần). - Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán – Giáo viên ghi bảng( Phương pháp hỏi đáp). 7 can: 35 l 2 can: l? - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp) + Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can chứa được bao nhiêu lít mật ong) + Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít mật ong trong 7 can chia cho 7). + Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: l? + Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can. (Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2). - Một học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng. Bài giải Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (l) Số lít mật ong có trong 2 can là: 5 x 2 = 10 (l) Đáp số:10l mật ong. - Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị - Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1: Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: +Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau) . Thực hiện phép chia. + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại( giá trị của nhiều phần bằng nhau) Thực hiện phép nhân. + Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước. - Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng. - Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích cách làm như. 3 túi: 45 kg hoặc : 4 thùng: 20 gói 12 túi: kg? 5 thùng: gói? Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập. 3.Thực hành: Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần thay đổi hình thức luyện tập. Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở. - Củng cố bước rút về đơn vị. - Củng cố các bước giải bài toán này. Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi. - Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả của cả lớp. - Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị. - Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán. Bài 3: Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi ghép hình. 4. Củng cố dặn dò: - Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị ( kiểu bài 1) - Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra. - Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1 là: + Bài giải được thực hiện qua 2 bước: Bước 1: ( Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị ( Giá trị 1 phần). ( phép chia). Bước 2: Tìm nhiều đơn vị ( từ 2 trở lên) ( phép nhân). + Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị ( nhiều phần). - Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2. b2. Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp kiểu bài 2: Khi dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước tương tự. Song để học sinh dễ nhận dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài lập lại của kiểu bài 1: “ Có 35 lít mật ong rót đều vào 7 can . Hỏi 2 can đó có bao nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở kiểu bài 1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2( giới thiệu bài). Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế? - Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1. - Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước thực hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này. + Bước 1: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về đơn vị) . ( phép chia) + Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia). Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc phương pháp hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh giá kết quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài). Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt của bài các em sẽ thấy được cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải như: 35 l: 7 can. 35 l: 7 can 10 l: 2 can ( đúng) 10 l: 50can ( vô lí). Từ đó các em nắm chắc phương pháp giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng, kĩ xảo tốt khi giải toán. b3. Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài: Để học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các bước giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài. Các bước Kiểu bài 1 ( Tìm giá trị của các phần) Kiểu bài 2 ( Tìm số phần) 1 Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) (Đây là bước rút về đơn vị) Tìm giá trị của 1 phần: ( phép chia) (Đây cũng là bước rút về đơn vị) 2 -Tìm giá trị của 1 phần ( phép nhân) -Lấy giá trị 1 phần nhân với số phần -Tìm số phần. - (Phép chia) - Lấy giá trị các phần chia cho gía trị 1 phần. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song song với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em không còn nhầm lẫn nữa. Lần 1: Bài toán 1: Có 5 túi gạo chứa được 40 kg gạo. Hỏi 3 túi gạo thì chứa được bao nhiêu ki - lô - gam gạo? Bài toán 2: Có 40 ki – lô - gam gạo đựng vào 5 túi. Hỏi có 24 kg gạo thì cần bao nhiêu túi như thế để đựng? * Củng cố cách giải, mối quan hệ giữa các phép tính trong 2 bài toán này. Mặt khác học sinh dễ dàng nhìn nhận ra lỗi sai của mình, nếu như nhầm phép tính ( Bài toán 2 là bài toán ngược của bài toán 1) Lần 2: Bài toán 1: Có 4 cái áo đơm hết 24 cái cúc áo. Hỏi có 1236 cúc áo thì đơm được bao nhiêu cái áo như thế? Bài toán 2: Ba thùng như nhau đựng được 27 lít mật ong. Hỏi 7 thùng như thế đựng được bao nhiêu l mật ong? - Đổi thứ tự bài để học sinh củng cố được cách nhận dạng 2 kiểu bài và phương pháp giải. Tóm lại: Trên đây là phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng toán: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi tin rằng nếu chúng ta làm được như vậy thì các em nắm được phương pháp giải dạng toán này tốt hơn, chắc chắn hơn, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần phấn khởi, tự tin khi giải toán. c. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng: Trong suốt quá trình nghiên cứu, quan sát học sinh giải toán, tôi thấy các em rất thích giải toán khi các em đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp giải toán. Các em giải toán đúng, chính xác hơn khi các em được thầy cô nhiệt tình hướng dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất. Với phương pháp này tôi đã trang thiết bị cho các em vốn kiến thức phương pháp cơ bản để các em giải dạng toán này không nhầm lẫn, sai sót đến chất lượng học của các em được nâng lên rõ rệt. Dạy xong kiểu bài 1, so với năm học 2017 - 2018, năm học 2018 - 2019 các em làm bài tốt hơn nhiều, chất lượng tăng. Dạy xong kiểu bài 2, chất lượng càng tăng hơn so với thời điểm năm ngoái. Nhìn chung, các em được giải toán, so sánh cách giải của 2 kiểu bài này, cho nên
Tài liệu đính kèm: