Thế kỉ XXI bởi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, tài
nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt
sau vài ba thập kỉ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, nhất là các nước lớn
đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển nên các nhà chiến lược xem thế kỉ XXI
là “thế kỉ đại dương”. Việt Nam là một quốc gia có biển, biển Việt Nam không chỉ
chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là cửa ngõ để chúng ta mở rộng quan hệ2
với quốc tế; Biển còn đóng vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, là địa bàn
chiến lược quan trọng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Môn lịch sử với chức năng giáo dục của mình đã “.góp phần hình thành
thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống
dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động, thái độ ứng xử
đúng đắn trong đời sống xã hội”. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa ngày càng
mở rộng, việc giáo dục cho thế hệ trẻ những giá trị truyền thống, những phẩm
chất cao quý và những bài học lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng và môn
lịch sử ở nhà trường phổ thông đã góp phần quan trọng trong chiến lược chung
của quốc gia về giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh –
những người làm chủ tương lai của đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn vấn đề “Giáo dục ý thức về chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở
trường THPT” (chương trình chuẩn) làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm
của mình, với mong muốn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần
dân tộc và khơi dậy trong các em, ý thức đóng góp sức mình vào nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền dân tộc trong đó có chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
ện nay. Việc giáo dục như thế nào cho có hiệu quả về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vấn đề rất “nhạy cảm”, diễn tiến rất phức tạp với những thay đổi không ngừng do nhiều yếu tố khách quan khác nhau. GV cũng phải thường xuyên tự cập nhật những thông tin mới qua nhiều kênh thông tin khác nhau để định hướng cho HS kịp thời, qua đó giúp HS nhận thức được vấn đề đúng đắn về tình hình hiện tại, nhất là trong bối cảnh Biển Đông thường xuyên “nổi sóng” như hiện nay. 2.4. Bảng thống kê những nội dung vận dụng nhằm giáo dục cho ý thức chủ quyền biển, đảo cho HS trong dạy học LSVN ở trường THPT. STT Lớp, Tên, bài Địa chỉ Nội dung 1 Lớp 10 – Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam Mục 1: Quốc gia Văn Lang, Âu Lạc Mục 2: Quốc gia Chăm Pa Mục 3: Quốc gia Phù Nam Ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, giá trị tiềm năng của kinh tế biển. 17 2 Lớp 10 - Bài 16: Thời bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc Mục II: Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu Biển đảo góp phần tạo nên những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc 3 Lớp 10 - Bài 17: Qúa trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến từ thế kỉ X - XV Mục II: Luật pháp và quân đội Các triều đại phong kiến luôn ý thức sâu sắc về chủ quyền đất nước trong đó có biển đảo. 4 Lớp 10 - Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV. Mục 3: Mở rộng thương nghiệp Giá trị tiềm năng kinh tế của biển trong phát triển kinh tế đất nước 5 Lớp 10 - Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ X - XV Mục I: Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống. Mục II: Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên ở thế kỉ XIII Biển đảo góp phần tạo nên những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. 6 Lớp 10 - Bài 22: Tình hình kinh tế trong các thế kỉ XVI - XVIII Mục 3: Sự phát triển thương nghiệp Vai trò của biển, đảo trong sự phát triển kinh tế đất nước. 7 Lớp 10 - Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII Mục II (1): Kháng chiến chống quân Xiêm Mục III: Vương triều Tây Sơn Biển đảo góp phần tạo nên những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Qúa trình chiếm hữu và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo của ta thời kỳ Tây Sơn. 8 Lớp 10 - Bài 24: Mục I: Tư tưởng, Vai trò của biển, đảo trong đời 18 Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI – XVIII tôn giáo Mục III: Nghệ thuật và khoa học kĩ thuật sống văn hóa con người Việt Nam và quá trình chiếm hữu thực sự hòa bình, thực thi chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam 9 Lớp 10 - Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX Mục 1: Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước – Chính sách ngoại giao Ý thức chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển của ta có từ rất sớm và quá trình xác lập, chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển đảo với Hoàng Sa và Trường Sa thời nhà Nguyễn. 10 Lớp 11 – Bài 19: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858 đến trước 1873) Mục I – 3: Chiến sự ở Đà Nẵng 1858 Biển đảo góp phần tạo nên những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc 11 Lớp 11 – Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước, cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ 1873 – 1884 nhà Nguyễn đầu hàng Mục III – 2: Hai bản hiệp ước 1883 và 1884, nhà nước phong kiến Nguyễn đầu hàng. Pháp đã thực hiện chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa 12 Lớp 11 – Bài 22: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp Mục 1: Những chuyển biến về kinh tế Pháp đã thực hiện chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 13 Lớp 12 – Bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 1925. Mục I – 1: Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp Pháp đã thực hiện chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 14 Lớp 12 – Bài 21: Mục I: Tình hình Chính quyền Việt Nam Cộng 19 Xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam 91954 – 1965) và nhiệm vụ của cách mạng nước ta sau hiệp định Giơ ne vơ Mục IV – 2: Miền Bắc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 – 1965) hòa đã thực hiện chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vai trò của biển, đảo trong sự phát triển kinh tế đất nước. 15 Lớp 12 – Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chóng đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vùa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973) Mục II – 2: Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc Chủ quyền biển đảo đã bị kẻ thù lợi dụng để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng. 16 Lớp 12 – Bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975) Mục III – 2: Cuộc tổng tiến công và nôi dậy mùa xuân 1975 Ý thức về chủ quyền quốc gia trên biển của ta. Biển đảo góp phần tạo nên những chiến công hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc 17 Lớp 12 – Bài 24: Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước 1975 Mục III: Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975 – 1976) Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta hiện nay 18 Lớp 12 – Bài 26: Đất nước trên con đường đổi mới đi lên xây dựng CNXH (1986 – 2000) Mục I – 2: Đường lối đổi mới của Đảng Vai trò của biển, đảo trong sự phát triển kinh tế đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta hiện nay 20 2.5. Một số biện pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSVN ở trường THPT. 2.5.1. Khai thác triệt để các sự kiện trong bài học lịch sửu nội khóa để giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS Trong chương trình môn lịch sử ở trường THPT hiện hành không có bài học nào trực tiếp đề cập đến chủ quyền biển đảo nói chung và Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, vì vậy khi dạy học GV có thể sử dụng tài liệu, lồng ghép, nhằm cụ thể hóa một số sự kiện trong các bài học lịch sử nội khóa có liên quan để liên hệ giáo dục ý thức về CQBĐ cho HS cụ thể: 2.5.1.1. Khai thác triệt để những nội dung lịch sử có khả năng giáo dục cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo. Muốn dạy tốt phần LSVN cho HS trong chương trình của bộ môn ở trường THPT nói chung và giáo dục về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng đạt kết quả cao nhất, GV cần khai thác triệt để những sự kiện, hiện tượng lịch sử có khả năng giáo dục. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, GV cần nắm vững nội dung chương trình SGK để phân biệt được sự kiện thể hiện trực tiếp nội dung về chủ quyền biển, đảo hay sự kiện liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam để tìm phương pháp giáo dục thích hợp và hiệu quả nhất. Thứ nhất, khai thác những sự kiện, tài liệu lịch sử thể hiện trực tiếp về chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ cổ đến đương đại như: Các văn bản nhà nước (Châu bản), sách điển chế, chính sử, sách địa chí, bản đồ lịch sử, tư liệu và bản đồ của phương Tây. Khi tiến hành khai thác, GV tiến hành theo 3 bước như sau: - Bước 1: Xác định tài liệu khai thác là tài liệu nào? Phục vụ cho việc dạy học bài nào, mục nào? - Bước 2: GV chọn phương pháp hướng dẫn HS khai thác và lĩnh hội tài liệu, sự kiện. - Bước 3: Ý nghĩa của việc khai thác tài liệu, sự kiện. Trong chương trình LSVN khối THPT, chúng ta có thể khai thác được nhiều tài liệu gốc trực tiếp thể hiện chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam để giáo dục cho HS như: Phủ biên tạp lục - 1776 của Lê Qúy Đôn, lịch triều hiến chương loại chí - 1821, hoàng Việt dư địa chí - 1833 của Lê Huy Chú), đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh Mạng; bản đồ lịch sử như: An Nam quốc đồ được thực hiện vào thời Hồng Đức (1490) đặc biệt là Bộ Atlas bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, trong đó có tấm bản đồ Partiedela Cochinechine (106) có giá trị quan trọng khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Phụ lục 5). 21 Ví dụ 1: Khi dạy bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (Nửa sau thế kỉ XIX), mục 1- Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách ngoại giao, GV khai thác các tài liệu gốc như: Các Tờ lệnh; tư liệu trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Lê Huy Chú; các tấm bản đồ lịch sử như: Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh Mạng...GV hướng dẫn HS khai thác những tài liệu nói trên và đặt câu hỏi: Em hãy nhận xét ý nghĩa của các loại tài liệu nói trên đối với cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo hiện nay của Việt Nam? Những nguồn tài liệu nói trên cho thấy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử và pháp lí quốc tế khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xác lập từ thời phong kiến, ít nhất là thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII). Ví dụ 2: Bài 20, lớp 11: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng, mục III. 2 - Hai bản Hiệp ước 1883 và 1884. Nhà nước phong kiến Nguyễn đầu hàng, phần nội dung Hiệp ước Hác măng. GV khai thác tài liệu gốc như: Nghị định số 4702- CP ngày 21-12-1933 của Thống đốc Nam Kì ra sắc lệnh sáp nhập đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa; Dụ số 10 ban hành ngày 29-2-1938 tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Ngãi, đặt vào tỉnh Thừa Thiên; hình ảnh về bia chủ quyền, trạm khí tượng, ngọn hải đăng được dựng ở Hoàng Sa (1838) GV hướng dẫn HS tìm hiểu những tài liệu nói trên và đặt câu hỏi: Những hành động nói trên của chính quyền thực dân Pháp có ý nghĩa gì đối với cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo hiện nay của Việt Nam? Những hành động nói trên của chính quyền Pháp cho thấy, trong thời kì này, chính quyền thực dân đã rất quan tâm đến chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, tích cực có những hành động nhằm thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa quan trọng, tạo thêm những cơ sở lịch sử và pháp lí vững chắc trong cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo của Việt Nam hiện nay. Như vậy, việc sử dụng những tài liệu lịch sử gốc trực tiếp thể hiện chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam nói trên nhằm giáo dục cho HS nắm vững, hiểu sâu kiến thức cơ bản của bài học. Rèn luyện cho HS các kĩ năng về bộ môn như phân tích, khai thác và sử dụng tài liệu gốc, khả năng tư duy, giải quyết vấn đề độc lập. Đồng thời giáo dục cho HS lòng yêu nước, dũng cảm, ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh hiện nay. Thứ hai, khai thác những sự kiện, tài liệu liên quan hoặc là hệ quả của vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Trong quá trình thiết kế bài giảng, GV trình bày bài giảng của mình theo nội dung SGK hoặc có thể sắp xếp lại cấu trúc các mục cho phù hợp với nội dung giáo dục. Điều quan trọng là GV phải xác định được những sự kiện cơ bản, 22 hiểu được nội dung, bản chất của sự kiện đó thể hiện sự liên quan như thế nào đến việc giáo dục cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo, từ đó GV lựa chọn các phương pháp bộ môn phù hợp với sự kiện và nội dung bài học. Ví dụ: Khi dạy bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng. GV có thể khai thác nội dung các văn bản liên quan đến chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ở Biển Đông như: Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC - 2002); Luật Biển Việt Nam năm 2012. Việc cho HS tìm hiểu nội dung của các văn bản nói trên, một mặt giáo dục cho HS hiểu, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt cơ sở pháp lý và kế thừa các chính quyền trước, tiếp tục thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi kí kết các văn bản mang tính pháp lý như trên, mặt khác HS cũng thấy được Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng pháp luật Việt Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hòa bình, an ninh trên biển. 2.5.1.2. Sử dụng tài liệu lịch sử để liên hệ kiến thức cần giáo dục cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Hiện nay, việc dạy học và giáo dục cho HS ở trường THPT được tiến hành trong giờ học nội khóa là chủ yếu. Do đặc trưng của việc học tập bộ môn Lịch sử, các loại tài liệu tham khảo ngoài SGK có ý nghĩa quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện lại hình ảnh quá khứ và đặc biệt là làm rõ những nội dung, vấn đề mới như vấn đề biển, đảo. Việc GV sử dụng tài liệu lịch sử trong bài học nội khóa khi tiến hành dạy lồng ghép vấn đề chủ quyền biển, đảo vào nội dung chương trình LSVN khối THPT là rất phù hợp. Vì đây là nguồn tài liệu tin cậy, loại tài liệu này dùng để làm dẫn chứng, minh họa cho các sự kiện đang trình bày trong nội dung bài học. Khai thác nguồn tài liệu này không chỉ cung cấp thêm tư liệu lịch sử phong phú, bổ sung thêm phần nội dung chưa có trong SGK mà còn làm sáng rõ hơn những kiến thức cơ bản của bài học. Ví dụ 1: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS về vai trò, vị trí của biển, đảo Việt Nam. Cụ thể: Biển, đảo có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa con người Việt. Ở bài 24, lớp 10: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục I - Về tư tưởng, tôn giáo và mục III - Nghệ thuật và Khoa học - Kĩ thuật, GV có thể dạy lồng ghép như sau: Từ lâu, biển, đảo đã là chủ đề để con người sáng tạo nên các giá trị văn hóa có giá trị còn lưu lại qua hàng nghìn năm lịch sử như: các cổ vật (Trống 23 đồng Đông Sơn), các tác phẩm văn học, các công trình kiến trúc Ở các thế kỉ XVI - XVIII, biển có vai trò quan trọng trong việc là cầu nối đưa những giá trị văn hóa của phương Tây đến với Việt Nam như: Đạo Thiên Chúa giáo, chữ Quốc ngữ. Biển còn là nguồn cảm hứng cho các ngư dân sáng tác ra những điệu hò Bá Trạo được thực hiện khi ra khơi và trong Lễ cầu ngư của cư dân ven biển. Trong lĩnh vực khoa học, các công trình nghiên cứu có nội dung về biển, đảo được xuất bản có ý nghĩa quan trọng là những chứng cứ lịch sử và pháp lí vững chắc cho Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, Thiên Nam Tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá (1686) Ví dụ 2: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS về quá trình chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thời phong kiến đến nay. Cụ thể: Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền trong thời Phong kiến Bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn nửa sau thế kỉ XIX, mục 1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách ngoại giao. GV phân tích cho HS hiểu, cùng với việc củng cố về mặt chính quyền, các ông vua triều Nguyễn tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động nhằm xác lập, chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như: đo đạc vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền, xây miếu, trồng cây trên đảo Dưới thời Minh Mạng, việc đo đạc để vẽ bản đồ về Hoàng Sa được tiến hành mạnh mẽ, thường xuyên bằng việc hàng năm sai lính đi thuyền ra các đảo cắm cột mốc, bên cạnh đó nhà vua cho vẽ bản đồ, dựng bia chủ quyền, xây miếu trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong cuốn Đại Nam thực lục chính biên có ghi: “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai xuất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật điều binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ( mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc) dựng bàn dấu mốc”. “ Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 15(1834) sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ”. Quá trình thực thi chủ quyền trong thời Pháp thuộc Ở bài 22, lớp 11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế. GV trích dẫn tư liệu: Từ năm 1927, thực dân Pháp bắt đầu nghiên cứu sâu quá trình xác lập chủ quyền của “vương quốc An Nam” tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong bức thư của Khâm sứ Trung kì Le Fol viết ngày 22-1-1929 gửi Toàn quyền Đông Dương có đoạn viết “các tài liệu trong kho lưu trữ của chính phủ An Nam cung cấp cho chúng ta những chi tiết về hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của đội Hoàng Sa”. 24 Bên cạnh đó, thực dân Pháp tiến hành các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa (1925), Trường Sa (1927); dựng bia chủ quyền, ngọn hải đăng, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa (1938)Như vậy, với việc cho HS tìm hiểu những tư liệu lịch sử nói trên nhằm giáo dục cho HS hiểu quá trình chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII), sang thời Pháp thuộc cho đến nay. Ví dụ 3: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS về những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam. Cụ thể: Bài 22, lớp 10: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục 3 - Sự phát triển của thương nghiệp. GV dạy lồng ghép nội dung sau: Trong thời phong kiến, ngay từ thời Lí - Trần đã nhận thấy được vai trò, giá trị to lớn về kinh tế của biển, đảo. Điều đó được thể hiện bằng việc cho xây dựng trang Vân Đồn (Quảng Ninh) làm bến cảng để thuyền buôn nước ngoài vào trao đổi hàng hóa, GV trích dẫn tư liệu: “Kỷ Tỵ, năm thứ 10 (1149)thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộc Hạc, Xiêm la vào Hải Đông xin ở lại buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương”. Vùng biển Vân Đồn có nhiều sản vật quý: “Chân châu do giống trai sinh ra ở bể Vân Đồn”, “vùng biển này không chỉ là huyết mạch giáo thông trong quân sự, thương mại mà còn đem lại những lợi ích kinh tế”. Như vậy, những hoạt động trên của chính quyền Nhà nước thời bấy giờ không chỉ có ý nghĩa nhằm phát triển kinh tế đất nước mà còn là chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí để Việt Nam khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 2.5.1.3. Sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học để giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS. Đồ dùng trực quan có vai trò to lớn trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT. Nó góp phần quan trọng nhằm tạo biểu tượng cho HS về một nhân vật lịch sử, một hiện tượng lịch sử diễn ra trong quá khứ, giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Đồng thời, việc sử dụng đồ dùng trực quan còn góp phần phát triển kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập cho HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đồ dùng trực quan về CQBĐ gồm: Bản đồ, tranh ảnh, hiện vật, phim tư liệurất phong phú đa dạng đòi hỏi thầy và trò phải biết vận dụng phương pháp và khai thác có hiệu quả đồng thời ngôn ngữ của GV phải sinh động và hấp dẫn và kết hợp chặt chẽ với tài liệu viết thì việc sử dụng đồ dùng trực quan mới thực sự hiệu quả Ví dụ 1: Sử dụng phim tư liệu lịch sử để giáo dục cho HS về cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Cụ thể: Bài 24, lớp 10: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục III - Nghệ thuật và khoa học - kĩ thuật. GV cho HS xem một đoạn phim tư liệu về 25 “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa” nhằm tái hiện lại việc những hùng binh Hoàng Sa năm
Tài liệu đính kèm: