Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 6

Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 6

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1. Tính mới của sáng kiến:

Sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm.

Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa

giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa

có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người.

Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng

khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt. Vấn dề này đã trở thành mối lo ngại của

xã hội, nhất là với gia đình và nhà trường.

Thực tế hiện nay, trong các nhà trường, học sinh cá biệt không nhiều,

song lại là “lực cản” rất lớn, thậm chí là thế lực “đen” đe dọa, khống chế những

nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường. Vấn đề

đó đó đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để

cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải,

phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách2

thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong

đó chủ yếu là nhiệm vụ của các giáo viên chủ nhiệm trong nhà trường.

Trong mấy năm qua, ở trường TH-THCS Thanh Lương có rất nhiều sáng

kiến nghiên cứu về phương pháp dạy học. Tuy nhiên về công tác chủ nhiệm thì

tôi thấy chưa có giáo viên nào đặc tâm nghiên cứu về vấn đề này, nên bản thân

tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở

lớp 6 nhằm có những giải pháp tích cực để giáo dục các em học sinh cá biệt có

hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

 

pdf 16 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 03/03/2022 Lượt xem 990Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt ở Lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an tâm của tôi đối với các em ấy. 
Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng để động viên, khuyến khích các em tạo 
cho các em chỗ dựa đáng tin cậy để các em ấy thấy được sự quan tâm của tôi 
như người cha người mẹ, luôn nâng đỡ dìu đắt các em những khi vấp phải khó 
4
khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc, tôi luôn 
tỏ thái độ cởi mở, chân tình, vui vẻ, tôn trọng và lắng nghe các em để cảm hóa 
các em. Tạo được mối quan hệ tốt thì các em mới chân tình thổ lộ, sẻ chia cũng 
như tâm sự những khó khăn, nỗi niềm riêng tư thầm kín của các em với giáo 
viên chủ nhiệm và những lời khuyên răn dạy bảo của chúng ta lúc này mới có 
tác dụng. 
 Khi các em phạm lỗi, tôi nhẹ nhàng phân tích những khuyết điểm những 
cái sai trong nhận thức cũng như hành động của các em để từ dó giúp các em 
nhận ra lỗi lầm của bản thân mà sửa chữa. Tuyệt đối tôi không la mắng, chửi bới 
các em vì điều này dễ gây ra những tâm lý tiêu cực và khiến các em tệ hơn lúc 
trước. Khi cần chúng ta có thể gặp riêng các em để nhắc nhở, trao đổi. 
 Trường hợp hai em cá biệt của lớp tôi, sau khi tìm hiểu, phân tích hoàn 
cảnh gia đình của từng em, tôi gặp riêng từng em. 
+ Đầu tiên là em Vũ, trước mặt tôi em tỏ ra rất ngoan, không có biểu hiện 
gì. Tôi bắt đầu từ việc hỏi thăm gia đình: Bà em có khỏe không? Ba, mẹ có hay 
về hoặc gọi điện thăm em không? Trước sự quan tâm của tôi, em Vũ đã kể 
chuyện với tôi rất chân tình. Khi thấy em không ngần ngại trong tâm sự cùng tôi, 
tôi bắt đầu dùng tình của một người mẹ để động viên: Em là niềm an ủi đối với 
bà trong lúc này, hoàn cảnh gia đình của em cô hiểu. Em cần cố gắng học tập 
thật tốt để bà được vui. Bà già rồi vẫn phải làm việc vất vả để nuôi em ăn học 
cho bằng bạn. Thế mà em lại lười học đi theo các bạn bỏ học để đi chơi, em 
không thương bà em hay sao? Nói tới đây, em không giám nhìn tôi, nước mắt 
rưng rưng. Tôi đã cảm hóa được em. Từ đó tôi thường xuyên tâm sự với em 
nhiều hơn. Tôi tìm những tiến bộ của em để khen ngợi. 
+ Còn trường hợp em Đạt, tôi theo dõi em nhiều hơn, hễ em có vi phạm gì 
là tôi biết ngay. Mỗi lần trao đổi với em, tôi đều đưa ra những chi tiết chính xác 
để em thấy rằng tất cả những việc làm của em tôi đều biết. Tôi động viên em 
bằng những lời lẽ chân tình: Cha mẹ em bận công việc cốt là để tạo sự nghiệp, 
tạo điều kiện cho em ăn học, lo cho tương lai của em. Nhiều bạn có hoàn cảnh 
khó khăn hơn, phải vất vả phụ giúp gia đình mà các bạn vẫn học tốt, còn em có 
điều kiện tốt mà lại không lo học rồi sau này em sẽ có thể làm được gì? Cha mẹ 
em sẽ ra sao khi có một đứa con như em? Dần dần Đạt đã thấy được cái sai 
của mình và cũng đã sửa đổi. 
5.2.2.3. Phân công cho học sinh cá biệt một số nhiệm vụ ở lớp. 
 Là một giáo viên chủ nhiệm, chúng ta đừng bao giờ để bụng những lỗi 
lầm của học sinh, không nên có cái nhìn kì thị, thái độ ghét bỏ, coi thường các 
em học sinh cá biệt. Dù là học sinh cá biệt và có khó giáo dục đến đâu chăng 
nữa thì bên trong các em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất, khả 
năng tích cực. Chúng ta hãy cố gắng phát hiện ra những ưu đểm ẩn sâu trong 
mỗi em để khơi gợi làm thức tỉnh khôi phục niềm tin cho các em để các em thấy 
rằng mình không hề kém cỏi, không phải là thứ bỏ đi. Từ đó các em vứt bỏ được 
sự tự ti mặc cảm trong bản thân và chủ động hội nhập với các bạn trong lớp. 
Ngoài ra điều này còn giúp các em phát huy được điểm mạnh của mình góp 
5
phần vào xây dựng tập thể vững mạnh, dần dần hình thành được phẩm chất tự 
tin, kiên định trước tập thể cũng như khẳng định được khả năng của bản thân. 
Đối với lớp tôi chủ nhiệm, sau khi tìm hiểu sở trường của từng em, tôi tin 
tưởng giao cho học sinh cá biệt thực hiện một số công việc tập thể phù hợp với 
khả năng của từng em. Cụ thể là : Em Vũ vì to, khỏe nên tôi giao cho em làm 
Lớp phó lao động. Còn Đạt thì rất nhanh nhẹn, hiếu động nên tôi giao cho em 
phụ trách mảng thể dục thể thao, để từ đó các em thấy được vai trò của mình 
trong tập thể lớp đồng thời phát huy tính làm chủ của các em. 
 Đây là việc làm mang tính hai mặt, vì vậy để đạt hiệu quả thì tôi thường 
xuyên theo dõi, giám sát, hướng dẫn từng hoạt động các em xem các em có 
những biểu hiện như thế nào: say mê, hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa 
chiếu lệ, đùn đẩy. Từ đó có biện pháp phát huy sở trường của từng em. 
 Từ những nhiệm vụ được giao, tôi luôn trân trọng những tiến bộ của các 
em dù chỉ là nhỏ nhất. Khi các em tiến bộ, tôi biểu dương, khen ngợi các em kịp 
thời. Đặc biệt là cuối tháng, tôi khích lệ, biểu dương các em ấy trước tập thể lớp 
bằng những món quà nho nhỏ như quyển tập, chiếc bút bởi vì đối với các em, 
một lời động viên, khen ngợi còn có giá trị hơn rất nhiều lần so với một lời phê 
bình hay một bản kiểm điểm. 
 5.2.2.4. Giáo dục học sinh cá biệt bằng tập thể: 
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu, 
nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi 
có tính tập thể, tính giáo dục cao. Vì thế nên tôi tổ chức cho tập thể lớp tận tình 
quan tâm, giúp đỡ những em học sinh cá biệt này dưới mọi hình thức như: phân 
công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở thích, ước mơ sinh hoạt, học 
tập với đối tượng này dần dần lôi kéo các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, 
từ đó xóa bỏ các mặc cảm là học sinh hư để rồi cùng với các thành viên trong 
lớp xây dựng tập thể vững mạnh. 
 Cụ thể ở lớp tôi chủ nhiệm, tôi phân công cho một em học giỏi, ngoan 
trực tiếp giúp đỡ em Vũ trong việc học tập, thường xuyên truy bài cùng bạn, 
hướng dẫn bạn giải những bài tập khó. Còn Đạt tôi lại cho em tự chọn một 
người học tốt, ngoan ở trong lớp để giúp đỡ mình trong học tập, rèn luyện. 
- Hàng ngày phải báo cáo kết quả cho tôi để nắm bắt được sự chuyển biến 
của các em Từ đó kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho các em cũng như có hình 
thức khen thưởng động viên khuyến khích các em. 
 Với biện pháp này không những giúp nhũng em học sinh cá biệt này tiến 
bộ mà còn làm cho tập thể lớp ngày càng đoàn kết, biết giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau 
trong việc học tập, rèn luyện cũng như trong cuộc sống. 
5.2.2.5 Giáo dục học sinh cá biệt bằng cách nêu gương: 
 Đây là một biện pháp giáo dục rất khả quan bởi vì ở lứa tuổi học sinh 
trung học cơ sở thường thích bắt chước, thể hiện mình. Nên trong các tiết sinh 
hoạt lớp tôi thường nêu gương tốt ở trong trường, trong lớp, cho các em xem 
một clip về học sinh vượt khó hay giới thiệu cho các em đọc cuốn sách “Tôi tài 
giỏi, Bạn cũng thế” của tác giả Ađam Kho nhằm tạo cho các em ý chí vươn lên. 
Tôi tin rằng khi các em trực tiếp xem, nghe người thực việc thực, các em sẽ tự 
 nhận thức được những hạn chế của bản thân tự phấn đấu đi lên. 
6
5.2.2.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình, các đoàn thể. 
 Hợp tác giữa giáo viên và gia đình và các đoàn thể là điều cần thiết để 
giáo dục học sinh cá biệt. Để dạt được hiệu quả tôi đã thực hiện như sau: 
- Kết hợp với gia đình: 
 + Gặp riêng gia đình, trao đổi và thống nhất các biện pháp giáo dục như : 
hạn chế cho các em đi chơi với các thanh niên hư hỏng ở địa phương, nắm rõ 
lịch học của HS để quản lí thời gian, giờ giấc, nhắc nhở, động viên các em học 
bài làm bài ở nhà... 
 + Thiết lập sổ theo dõi giữa gia đình và lớp: Hàng tuần giáo viên đánh 
giá nhận xét việc học tập cũng như hành động của các em vào sổ gửi về cho bố 
mẹ thông qua sổ liên lạc, vnEdu.vn hoặc Zalo. Đồng thời cũng lấy ý kiến từ gia 
đình để giáo viên có biện pháp giáo dục khác, từ đó gia đình luôn nắm bắt được 
tình hình học tập của con em mình, cùng với nhà trường kèm cặp học sinh tốt 
hơn. 
- Kết hợp với giáo viên bộ môn: Tôi thường xuyên trao đổi với các giáo 
viên bộ môn để nắm rõ tình hình, thái độ, kết quả học tập để từ đó có hướng 
động viên, giúp đỡ các em cố gắng trong từng môn học. 
- Kết hợp với tổ chức Đoàn Đội là một biện pháp giáo dục có hiệu quả rất 
cao trong việc giáo dục đạo đức học sinh. 
+ Tôi thường yêu cầu các em chấm sao đỏ ghi lại những học sinh vi phạm 
để kịp thời xử lí dứt điểm. 
+ Còn với Tổng phụ trách đội thì tôi thường xuyên giữ mối quan hệ chặt 
chẽ. Tôi kết hợp biện pháp “vừa đấm vừa xoa”. Ở lớp tôi đã dùng biện pháp 
mềm mỏng, thuyết phục rồi thì tôi nhờ tổng phụ trách đội dùng biện pháp cứng 
rắn hơn. 
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: 
Đề tài “Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6” có khả năng áp 
dụng cho giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THCS trong toàn tỉnh Bình 
Phước. 
Ngoài ra còn có thể áp dụng trong công tác chủ nhiệm ở trường THCS cho 
các tỉnh, huyện khác. 
6. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
Để các giải pháp đạt hiệu quả tốt hơn cần các điều kiện như: 
- Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và thường xuyên giữa giáo viên chủ 
nhiệm, với giáo viên bộ môn, với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường và đặc 
biệt là với gia đình. 
- Cần có sự quan tâm hỗ trợ của cấp chính quyền ở địa phương. 
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
kiến theo ý kiến của tác giả: 
Sau một thời gian thực hiện các biện pháp trên đây để diáo dục, cảm hoá 
học sinh cá biệt ở lớp 6/6 trường TH-THCS Thanh Lương, tôi thấy tính hiệu quả 
của các biện pháp này là rất khả quan. Hai em học sinh cá biệt của lớp tôi sau 
một thời gian không lâu được tôi tác động đã có nhiều tiến bộ vượt bậc: hai em 
trở nên ngoan ngoãn hơn, đi học đúng giờ, không bỏ học, hay phát biểu trong 
7
giờ học, ít vi phạm nội quy... Qua đợt kiểm tra giữa kì và cuối kì I, các em đạt 
được điểm số trên trung bình ở các môn học và được thầy cô bộ môn khen ngợi. 
Đặc biệt là em Đạt từ một học sinh có học lực kém, hạnh kiểm trung bình ở năm 
học 2019-2020, sang học kì I năm học 2020-2021, em đã được xếp loại học lực 
trung bình, hạnh kiểm khá. 
Không chỉ hai em học sinh cá biệt này tiến bộ mà cả tập thể lớp 6/6 cũng 
có những chuyển biến rất rõ rệt. Từ đầu năm, các em trong lớp là những học 
sinh từ các trường Tiểu học trong địa bàn xã Thanh Lương chuyển lên, không hề 
quen biết nhau vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn các em đã hòa nhập, đoàn 
kết với nhau, biết yêu thương, giúp đỡ nhau trong trong học tập cũng như trong 
cuộc sống. Kết quả xếp thi đua hàng tuần hàng tháng luôn đứng đầu trong toàn 
khối. 
Kết quả xếp loại hai mặt cụ thể của lớp như sau: 
SS Học lực Hạnh kiểm 
Giỏi Khá TB Yếu Kém Tốt Khá TB Yếu 
 SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 
38 10 26,3 11 29 17 44,7 0 0 0 0 28 73,7 10 26,3 0 0 0 0 
Từ bảng thống kê trên cho thấy, kết quả học tập và rèn luyện của các em 
lớp 6/6 đã cao hơn rất nhiều so với kết quả của toàn trường nói chung và của 
khối 6 nói riêng. Từ những học sinh kém về học lực, trung bình về hạnh kiểm, 
khi được giáo dục bằng các giải pháp trên, các em đã có tiến bộ vượt bậc. Đó là 
một kết quả khiến tôi rất hài lòng sau một học kì thực hiện các biện pháp trên 
đây để giáo dục học sinh cá biệt. Tuy nhiên không vì thế mà tôi dừng lại ở đó, 
với những kinh nghiệm của bản thân cũng như trách nhiệm của người giáo viên, 
tôi sẽ cố gắng từng bước khắc phục những khó khăn trước mắt để tạo điều kiện 
và giúp đỡ các học sinh cá biệt vươn lên, tiến bộ hơn nữa trong thời gian tới. 
9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần 
đầu, kể cả áp dụng thử 
8
10. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng 
kiến lần đầu: 
Số 
TT 
Họ và 
tên 
Ngày 
tháng 
năm 
sinh 
Nơi công 
tác (hoặc 
nơi thường 
trú) 
Chức 
danh 
Trình độ 
chuyên 
môn 
Nội dung công 
việc hỗ trợ 
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật 
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. 
Thanh Lương, ngày 01 tháng 01 năm 2021 
 Người nộp đơn 
 (Ký và ghi rõ họ tên) 
 Lê Thị Bích Thủy 
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
9
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến Trường TH- THCS Thanh Lương 
 Hội đồng sáng kiến Ngành GD&ĐT TX Bình Long 
Tôi ghi tên dưới đây: 
Số 
TT 
Họ và 
tên 
Ngày 
tháng 
năm sinh 
Nơi công 
tác (hoặc 
nơi thường 
trú) 
Chức 
danh 
Trình độ 
chuyên 
môn 
Tỷ lệ (%) 
đóng góp vào 
việc tạo ra 
sáng kiến (ghi 
rõ đối với từng 
đồng tác giả, 
nếu có) 
1 CAO 
NGỌC 
CƯỜNG 
12/02/1978 Trường 
 TH-THCS 
THANH 
LƯƠNG, 
TX BÌNH 
LONG, 
BÌNH 
PHƯỚC 
Giáo 
viên 
THCS 
CĐSP 
 TDTT 
100% 
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Giáo dục học sinh cá biệt ở 
lớp 6” cấp Thị xã năm học 2020-2021 
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư ra sáng kiến 
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục ( Chủ nhiệm lớp) 
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/09/2020 
5. Mô tả bản chất của sáng kiến: 
- Nghiên cứu thực tiễn về sự hứng thú, tích cực của học sinh trong hoạt động 
khởi động và ảnh hưởng của hoạt động khởi động đến toàn bộ quá trình tiết học 
của bộ môn Địa lí. 
- Đề xuất những giải pháp đổi mới trong hoạt động khởi động để phát huy tính 
tích cực của học sinh, tạo tâm lý sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập một cách 
chủ động và sáng tạo. 
10
- Thông qua những trải nghiệm thực tế rút ra được những bài học kinh nghiệm 
cho bản thân để đổi mới có hiệu quả hoạt động dạy học, đặc biệt là xây dựng có 
hiệu quả các tình huống khởi động nhằm mang lại hứng thú cho học sinh, kích 
thích các em tích cực và chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức một cách tự 
nhiên, không miễn cưỡng, gò bó. 
- Hơn hết đây là một trong những bước trong tiến trình bài dạy theo định hướng 
phát phiển phẩm chất năng lực của học sinh trong “Chương trình giáo dục phổ 
thông mới”. 
 Sau đây tôi xin được chia sẻ với đồng nghiệp những giải pháp mà bản thân tôi 
đã thực hiện trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. 
5.2. Nội dung sáng kiến 
5.2.1.Thực trạng dạy và học môn Địa lí tại trường THCS 
 Tình hình thực tế hiện nay, đa số giáo viên đều có tinh thần tự đổi mới 
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh tuy nhiên 
phần lớn các thầy cô giáo đều hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình 
thành kiến thức là chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động 
cũng như vai trò của khởi động trong việc định hướng tiết dạy, tạo tâm lý tích 
cực cho học sinh để các em chủ động và tích cực khai thác, khám phá kiến thức 
mới nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra về kiến thức, kỹ năng và những 
năng lực cần hình thành cho học sinh sau mỗi tiết học hoặc nếu có cũng thực 
hiện 1 cách sơ sài mang tính hình thức. 
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nhận thấy tầm quan trọng của hoạt 
động khởi động có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ tiến trình tiết dạy, ảnh hưởng lớn 
đến việc chủ động sẵn sàng tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ học tập của học 
sinh nên tôi đã tiến hành thực hiện giải pháp “Phát huy tính tích cực của học 
sinh qua hoạt động khởi động trong dạy học Địa lí ở bậc THCS”. Tuy nhiên 
trong quá trình thực hiện tôi thấy còn một số thuận lợi, khó khăn sau: 
a. Thuận lợi 
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, ham thích tìm hiểu kiến thức Địa lí. 
- Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đến quá trình đổi mới 
phương pháp, luôn tạo điều kiện kịp thời để người dạy phát huy tốt khả năng của 
bản thân, có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học. 
b. Khó khăn 
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp học hỏi kinh nghiệm ở các đồng 
nghiệp tôi nhận thấy. 
Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa chủ động trong việc học hỏi, 
tiếp thu phương pháp và kỹ năng dạy học tích cực để vận dụng trong quá trình 
dạy học.Tâm lý giáo viên còn nặng về truyền thụ kiến thức bài học mới, còn sợ 
dành nhiều thời gian cho hoạt động khởi động có thể bị “cháy giáo án” hoặc 
không đủ thời gian dành cho việc khai thác kiến thức mới.Việc ứng dụng công 
nghệ thông tin của giáo viên trong một số tình huống chưa tốt nên còn ngại 
trong việc đổi mới phương pháp dạy học và thiết kế giáo án theo hướng phát huy 
tính tích cực của học sinh trong hoạt động khởi động. 
Về phía học sinh: Nhiều học sinh có tâm lý học lệch, thiên về một số 
môn KHTN nên ở các môn KHXH còn lại chưa có sự đầu tư, chưa quan tâm 
11
chuẩn bị bài chưa chu đáo, dẫn đến tiết học còn thụ động.Áp lực học tập từ 
nhiều bộ môn khác nhau trong cùng một buổi học nên khả năng tập trung tư duy, 
tích cực và sáng tạo dành cho môn Địa lí còn ít.Tâm lý sợ về nhà không có nội 
dung để học nên nhiều học sinh trong giờ học chưa thực sự tích cực và chủ động 
dành thời gian tìm hiểu, khai thác kiến thức mà còn nặng về việc ghi chép nội 
dung bài học 1 cách thụ động. 
5.2.2.Giải pháp thực hiện 
Với hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính 
tích cực của học sinh ngay từ hoạt động khởi động, do đó khởi động cần tổ chức 
thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều 
hơn. Do đó khi xây dựng ý tưởng cho hoạt động khởi động giáo viên cần lưu ý 
không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội 
dung mang tính chất minh họa mà cần cụ thể: Sử dụng nội dung bài học để khởi 
động sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp 
giáo viên biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để 
khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết (điều này có thể sẽ khác 
nhau ở từng lớp nên giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để phù hợp với đối 
tượng học sinh ở các lớp). 
Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực 
hiện nội dung bài dạy” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự 
hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo 
được hứng thú cho học sinh để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham 
gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. 
 Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó 
nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được, khi các em trả lời 
được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. 
 Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu 
tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có 
hứng thú tìm hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu 
học tập một cách chủ động và tích cực của các em. Do đó bên cạnh câu hỏi dễ 
cần có một lượng nhất định các câu hỏi khó liên quan đến nội dung bài học, đòi 
hỏi học sinh phải tư duy, phải chủ động khai thác kiến thức mới thì mới trả lời 
được. Do đó, trong hoạt động khởi động nếu giáo viên tìm ra được tình huống 
khó nhưng lại hấp dẫn, kích thích trí tò mò của các em thì dù là học sinh khá 
giỏi hay học sinh trung bình, học sinh yếu cũng sẽ có nhu cầu tìm hiểu để trả lời. 
Từ đó dẫn các em vào bài học một cách tư nhiên, không gò bó mà các em tự 
giác, tích cực học tập để giải quyết cái khúc mắc đã được đưa ra từ tình huống 
ban đầu. 
 Khi áp dụng tổ chức hoạt động khởi động cho tất cả các tiết học ở các lớp 
thì giáo viên nên lưu ý: Kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh 
cho phù hợp với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng 1 tình 
huống cố định dùng chung cho tất cả các lớp trong cùng một khối. Phương án 
xây dựng tình huống khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về 
hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm chán cho học sinh khi tiết học nào cũng 
12
tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn lại lên” với các bước tuần tự 
như nhau. 
5.2.3. Minh họa một số bài giảng phát huy tính tích cực của học sinh qua 
hoạt động khởi động trong giờ học Địa lí ở bậc THCS 
*Địa lí 6 
Bài 8: Sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời 
 Giáo viên cho học sinh đóng vai Trái Đất và Mặt Trời. Sau đó lần lượt gọi 
một số em lên hướng dẫn nhân vật Trái Đất chuyển động quanh trục đồng thời 
dự đoán 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_o_lop_6.pdf