I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tự nhiên và xã hội là một môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về các sự vật, sự kiện hiện tượng trong tự nhiên, xã hội với mối quan hệ trong đời sống thực tế của con người. Trong chương trình Tiểu học, cùng với Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội trang bị cho các em học sinh những kiến thức cơ bản của bậc học, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách toàn diện của con người. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục nước nhà, chương trình giáo dục bậc Tiểu học đã thực hiện đổi mới Sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học ở các lớp, các môn học nói chung và môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 nói riêng. Chương trình đã được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với quy luật nhận thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Thực hiện tốt mục tiêu đổi mới của môn Tự nhiên và Xã hội, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học sao cho học sinh là người chủ động, nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện tự giải quyết các tình huống có vấn đề đặt ra trong bài học, từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.
Từ thực tế giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở trường Tiểu học Đặng Trần Côn, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung Sách giáo khoa và phương pháp dạy học để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu, lựa chọn đề tài: “ Đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 1”.
ng gặp đến Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao. Lớp 3: Nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 có 3 chủ đề gồm 70 tiết của 35 tuần. Trong đó có 63 bài học mới và 7 bài ôn tập được phân phối: - Con người và sức khoẻ: 16 bài mới và 2 bài ôn tập. - Xã hội: 18 bài mới và 3 bài ôn tập, kiểm tra. - Tự nhiên: 29 bài mới và 2 bài ôn tập kiểm tra. Cũng như các sách Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, nội dung kiến thức trong toàn bộ sách Tự nhiên và Xã hội lớp 3 được phát triển theo nguyên tắc từ gần đến xa, dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân đến gia đình, trường học, từ cuộc sống xã hội xung quanh đến thiên nhiên rộng lớn, từ những cây cối, con vật thường gặp đến mặt trời, trái đất và mặt trăng. Nội dung kiến thức trong chủ đề đều được tích hợp nội dung giáo dục sức khoẻ một cách hợp lý nhuần nhuyễn; đi từ sức khoẻ cá nhân trong chủ đề con người và sức khoẻ đến sức khoẻ cộng đồng trong chủ đề xã hội và sức khoẻ môi trường trong chủ đề Tự nhiên. * Giai đoạn 2: ( lớp 4, 5) Tự nhiên và Xã hội được chia làm 3 phân môn: Môn khoa học; môn Địa lí; môn Lịch sử. Các phân môn này cũng tương đương với các môn học khác trong chương trình tiểu học. Mặc dù được chia làm 3 phân môn riêng, song khoa học, lịch sử, địa lí đều cung cấp cho học sinh kiến thức về Tự nhiên và Xã hội, giúp học sinh biết ứng dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày. Riêng lớp 5 học sinh được học những kiến thức rộng hơn về châu lục và các đại dương trên thế giới. Thời lượng học tập dành cho môn Tự nhiên và Xã hội lớp 4,5 tương đối nhiều: 4 tiết /1 tuần: Khoa học 2 tiết/1tuần; Lịch sử:1 tiết/1 tuần; Địa lí 1 tiết/1tuần. 2. Nghiên cứu kỹ quy trình dạy tiết Tự nhiên và Xã hội lớp 1. 2.1. Kiểm tra bài cũ: ( 2- 3’) Giáo viên nêu câu hỏi để kiểm tra kiến thức cũ có liên quan kiến thức của bài mới. 2.2. Dạy bài mới (28 - 30’) - Giới thiệu bài - khởi động (1 -2’) - Hình thức tổ chức: Giáo viên nêu mục tiêu tiết học hay tổ chức trò chơi, bài hát, điệu múa hoặc các động tác khởi động. - Mục đích: Khơi gợi hứng thú học tập, xây dựng động cơ học tập đúng đắn, có mục đích. - Yêu cầu giáo viên phải hướng dẫn khéo léo để làm xuất hiện những tình huống có vấn đề, kích thích trí tò mò, ham học hỏi của học sinh. Tổ chức các hoạt động dạy học (27 - 28’) * Hoạt động 1: Quan sát hình thành khái niệm kiến thức. a) Mục tiêu: Học sinh biết được mục đích quan sát, được quan sát trực tiếp có kế hoạch. Trên cơ sở quan sát học sinh tự rút ra kết luận hoặc kiến thức cần có. b) Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng phương pháp: - Quan sát. - Thảo luận nhóm. - Hỏi đáp. - Động não. * Hoạt động 2: Khai thác vốn sống thực tế, liên hệ hình thành kĩ năng thái độ. a) Mục tiêu: - Hình thành kĩ năng quan sát, nhận xét thắc mắc, đặt câu hỏi. Biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về các sự vật hiện tượng đơn giản trong Tự nhiên và Xã hội. - Kĩ năng tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử hợp lý trong đời sống để phòng chống một số bệnh tật và tai nạn. b) Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng phương pháp: - Quan sát. - Thảo luận nhóm. - Hỏi đáp. - Luyện tập thực hành. - Điều tra. * Hoạt động 3: Trò chơi học tập hoặc làm phiếu bài tập theo yêu cầu. a) Mục tiêu: - Củng cố kiến thức, kĩ năng vừa học. - Gây hứng thú, xua tan mệt mỏi sau các hoạt động quan sát hình thành kiến thức. - Tích cực hoá của học sinh. b) Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng phương pháp: - Quan sát. - Trò chơi. - Đóng vai. - Điều tra. Sau mỗi hoạt động giáo viên cần chốt kiến thức, kỹ năng trọng tâm đã cung cấp cho học sinh. c) Củng cố dặn dò (2 - 3’) - Giáo viên nêu 1 - 2 câu hỏi để kiểm tra kiến thức, kĩ năng, thái độ học sinh đã nắm được qua giờ học. - Giáo viên nhận xét tiết học. III. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 1 Trong quá trình giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, tôi thấy có thể chia các phương pháp dạy học thành các nhóm phương pháp sau: Nhóm 1: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp động não và phương pháp nghiên cứu tình huống đóng vai. - Ở phương pháp thảo luận, giáo viên tổ chức đối thoại giữa mình và học sinh hoặc giữa học sinh với học sinh, nhằm huy động trí tuệ của tập thể, giải quyết một vấn đề do thực tế cuộc sống đòi hỏi để tìm hiểu hoặc đưa ra những giải pháp, những kiến nghị, những quan niệm mới. Học sinh giữ vai trò tích cực và chủ động tham gia thảo luận và tranh luận. Giáo viên giữ vai trò nêu vấn đề gợi ý khi cần thiết và tổng kết thảo luận. Khi tổ chức hoạt động giáo viên có sử dụng phương pháp thảo luận, cần dự kiến rõ thời gian, hình thức thảo luận, nội dung thảo luận để học sinh thảo luận hướng vào mục tiêu bài học, huy động kiến thức thực tế để xây dựng bài học. Giáo viên cần nêu ra những vấn đề để học sinh tìm cách giải quyết và rút ra kết luận khoa học. Đây chính là giáo viên kết hợp giữa phương pháp thảo luận và phương pháp động não. - Với học sinh lớp 1 giáo viên chỉ nên đề xuất những vấn đề đơn giản phù hợp với nhận thức của các em vì tư duy của các em còn mang tính trực quan. Cũng với cách tổ chức như vậy nhưng giáo viên đưa ra những tình huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống để học sinh tham gia giải quyết bằng cách diễn đạt không cần kịch bản. Đó chính là cách giáo viên sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống và đóng vai. - Để phát huy được ưu thế của phương pháp này người giáo viên cần thực hiện theo các bước sau: + Lựa chọn tình huống. + Chọn người tham gia. + Chuẩn bị diễn xuất. + Đánh giá kết quả. Đây là nhóm phương pháp đặc trưng, sử dụng chính trong chủ đề “Xã hội” nó tập cho học sinh kĩ năng nghiên cứu, giải quyết vấn đề về kiến thức do bài học đặt ra. VD: Bài 4 “Bảo vệ mắt và tai” - Giáo viên nêu câu hỏi để học sinh động não: Hãy chỉ và nói các việc nên làm và không nên làm để bảo vệ mắt. Sau đó giáo viên tiến hành tổ chức cho học sinh quan sát tranh thảo luận nhóm rồi rút ra kết luận: - Các việc nên làm để bảo vệ mắt: Đọc sách, học bài ở nơi đủ ánh sáng, lau mặt, rửa mắt hàng ngày, khám mắt định kỳ. - Các việc không nên làm để bảo vệ mắt: Không nhìn thẳng vào mặt trời hoặc những nguồn sáng mạnh như tia lửa hàn, đèn pin không dụi mắt, dùng vật sắc nhọn chọc vào mắt, xem nhiều ti vi, điện thoại, Ipad, hoặc xem ti vi quá gần. Ví dụ 2: Bài 6 “Chăm sóc và bảo vệ răng” * Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát các hình trong SGK/14,15, sau đó thảo luận theo nhóm nội dung các câu hỏi (sử dụng máy chiếu các slide câu hỏi và các tranh trong sách giáo khoa) như sau: - Các bạn trong tranh đang làm gì? - Nêu các việc nên làm và không nên làm để chăm sóc và bảo vệ răng. - Chăm sóc và bảo vệ răng có lợi gì? * Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai theo tình huống: “Buổi tối anh đi sinh nhật bạn về mang cho em một gói kẹo và bảo em ăn. Nếu là người em, con sẽ nói gì và làm gì?” - Giáo viên theo dõi diễn xuất của các em, hướng dẫn các học sinh còn lại nhận xét đánh giá cách ứng xử của các bạn. Chú ý: Khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần đưa ra câu hỏi thảo luận; nêu rõ mục đích thảo luận để hướng học sinh vào hoạt động. Tránh tình trạng chỉ có một học sinh làm việc, còn lại nói chuyện hoặc xem tranh ảnh khác trong sách, gây mất tập trung cho cả nhóm, gây ồn ào, giáo viên không bao quát được. Khi nêu câu hỏi động não giáo viên cần đưa câu hỏi vừa sức, mang tính thực tế học sinh có thể vận dụng kiến thức vốn sống thực tế vào bài học được dễ dàng. Khi tổ chức nghiên cứu tình huống và đóng vai giáo viên nên đưa ra những tình huống đơn giản gần gũi, dễ giải quyết để học sinh nhập vai và thể hiện thành công vai diễn của mình Nhóm 2: Phương pháp trò chơi và phương pháp luyện tập thực hành. Ở phương pháp trò chơi giáo viên tổ chức học sinh tham gia trò chơi một cách có chủ định mà không cần luyện tập trước. Đây là một dạng hoạt động mang tính sáng tao. Khi tổ chức giáo viên cần đóng vai trò là trọng tài điều khiển cuộc chơi, học sinh là người thực hiện.Còn phương pháp luyện tập – thực hành thì giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành luyện tập để củng cố lại những kiến thức mà bài dạy hoặc chủ điểm đã đặt ra. Để thực hành luyện tập giáo viên có thể tổ chức nhiều hình thức như: làm phiếu bài tập, triển lãm hoặc tham quan. Nhóm phương pháp này là nhóm phương pháp đặc trưng kết hợp thành một nhóm sử dụng chính trong chủ đề:” Con người và sức khoẻ.” Nó giúp học sinh tập luyện theo hiểu biết kiến thức đã học. Ví dụ: Bài 10 “Ôn tập: Con người và sức khoẻ” Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành luyện tập để củng cố và khắc sâu kiến thức về vệ sinh cơ thể, vệ sinh ăn uống, hoạt động và nghỉ ngơi. - Học sinh làm phiếu bài tập với nội dung: Đánh dấu + vào trước câu trả lời đúng: Trước khi ăn phải rửa tay sạch sẽ. Không nên ăn nhiều rau trong bữa ăn. Tập thể dục buổi sáng là rất tốt đối với sức khoẻ. Nên ăn nhiều cá, thịt để cơ thể khoẻ mạnh và chóng lớn. Sau khi kiểm tra nội dung của phiếu học tập, giáo viên nên đặt câu hỏi để học sinh nêu rõ lí do vì sao lại trả lời như vậy. - Học sinh thực hiện một số các động tác vận động, để thấy được hoạt động của các cơ quan trong cơ thể. - Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Nhóm 3: Phương pháp điều tra và phương pháp hỏi đáp Phương pháp điều tra giúp tổ chức và hướng dẫn học sinh tìm hiểu vấn đề, sau đó dựa trên thông tin thu nhập tiến hành phân tích so sánh, khái quát hoá để rút ra kết luận. Còn phương pháp hỏi đáp yêu cầu giáo viên tổ chức đối thoại với học sinh, nhằm dẫn dắt học sinh tự rút ra kết luận khoa học, hoặc vận dụng kiến thức vào thực tế. Phương pháp này được coi là công cụ tốt nhất đến việc lĩnh hội kiến thức của học sinh, giúp giáo viên đánh giá kết quả thu nhận kiến thức đó và nhờ vậy giáo viên điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy cho phù hợp. Nhóm phương pháp này sử dụng chủ yếu trong chủ đề “Tự nhiên”, nhằm kích thích học sinh tích cực nghiên cứu tìm hiểu kiến thức ở chủ đề này, học sinh có rất nhiều vốn sống, vốn hiểu biết để tham gia vào bài học. Những loài cây, con vật, sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên gần gũi với các em hàng ngày. Vì vậy giáo viên nên chú ý tổ chức các hình thức học tập như: ở ngoài thiên nhiên, hoạt động triển lãm, trưng bày các vật thật, tranh ảnh, để giờ học thêm sinh động, học sinh học tập hăng hái, tích cực, kiến thức của bài học sẽ được học sinh nhớ lâu và khắc sâu hơn. Ví dụ: Bài 29 “Nhận biết cây cối và con vật” Giáo viên tổ chức cho học sinh triển lãm theo nhóm. Nhóm trưởng yêu cầu các thành viên trong nhóm đưa ra các tranh ảnh về các cây đã sưu tầm được. Thành viên trong nhóm cùng nhau phân loại thành 3 nhóm: - Cây hoa - Cây gỗ - Cây rau Sau đó giáo viên tổ chức cho các nhóm trưng bày sản phẩm của mình và đánh giá lẫn nhau. Học sinh tự rút ra kết luận: - Có nhiều loại cây khác nhau. - Chúng được trồng ở khắp mọi nơi. - Cần chăm sóc và bảo vệ cây. Tuy nhiên khi sử dụng nhóm phương pháp này chúng tôi nhận thấy cần lưu ý những điểm sau: - Phiếu điều tra phát ra cho học sinh cần rõ ràng, cụ thể để học sinh tiện trả lời hoặc điền vào phiếu. Giáo viên cần khéo léo nêu câu hỏi để gây cho học sinh cảm giác chính học sinh là người tìm ra kiến thức mới. - Câu hỏi phải thể hiện tính vừa sức, gần gũi giúp học sinh huy động tối đa vốn sống và kiến thức thực tế của mình để xây dựng bài học. Ngoài 3 nhóm phương pháp trên, phương pháp quan sát là phương pháp đặc trưng nhất của môn Tự nhiên và Xã hội. Phương pháp này có thể kết hợp với tất cả các phương pháp dạy học khác trong quá trình giảng dạy. Quan sát là nguồn gốc và phương tiện nhận thức và trí lực của con người. Cho nên, khi sử dụng phương pháp này giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách quan sát để tìm tòi và phát hiện ra kiến thức mới. Khi tổ chức cho học sinh quan sát, giáo viên cần xây dựng cho học sinh trình tự quan sát như sau: - Mục đích quan sát. - Lựa chọn đối tượng quan sát - Hình thức quan sát - Trình tự quan sát. Trên đây là các nhóm phương pháp sử dụng trong từng chủ đề học tập của môn Tự nhiên và Xã hội Lớp 1. Mặc dù mỗi chủ đề có những phương pháp đặc trưng riêng nhưng giáo viên cần phối hợp sử dụng linh hoạt các phương pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Qua kinh nghiệm giảng dạy cho thấy trong một giờ học không bao giờ chỉ dùng một phương pháp dạy học mà thành công. Một bài giảng tốt là kết quả của việc phối hợp sử dụng nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt, hợp lý thì giờ học mới đạt kết quả cao. IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở LỚP 1 1. Tổ chức tốt các hoạt động dạy – học. Mục tiêu đổi mới của môn học là nhằm tăng cường hoạt động học tập của cá nhân học sinh nên tổ chức dạy học theo hướng sáng tạo chính là trọng tâm của việc đổi mới. Vì vậy, để đưa học sinh trở thành chủ thể nhận thức, chủ động tích cực tiếp thu kiến thức mới. Giáo viên cần khéo léo tổ chức các hoạt động dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới theo hướng hoạt động tích cực hoá. Muốn vậy người giáo viên cần xác định đúng tầm quan trọng của môn học, ý nghĩa của môn học để đảm bảo các yêu cầu: - Dạy đủ số tiết, số bài quy định. - Dạy đủ thời gian đi đúng quy trình đã thống nhất của một tiết dạy khi thiết kế bài học. - Dạy đúng theo hướng đổi mới các phương pháp tổ chức, các hoạt động học tập để học sinh tích cực tham gia xây dựng bài học. Đồng thời: Khi tổ chức dạy học, giáo viên cũng cần chú ý đến nghệ thuật thu hút học sinh, cần tạo ra những động cơ gần thúc đẩy các em học tập, như tuyên dương, khen ngợi Kĩ thuật giao việc của giáo viên cũng cần phải khéo léo, mỗi câu hỏi nêu ra cần đảm bảo tính vừa sức, tính phù hợp, làm sao để mỗi đối tượng học sinh đều lĩnh hội được kiến thức của bài học một cách đầy đủ, sáng tạo. Học sinh phải thấy được chính các em là người tìm ra kiến thức và có hứng thú xây dựng bài học. 2. Lựa chọn các phương pháp phù hợp với bài học. Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng do vậy người giáo viên phải có sự lựa chọn kết hợp giữa các phương pháp cho phù hợp với đặc trưng của từng môn học đặc biệt là môn Tự nhiên và Xã hội. Bên cạnh đó người giáo viên cần căn cứ vào hoàn cảnh, tình hình cụ thể của lớp học và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để thay đổi hình thức học tập, tạo hứng thú cho học sinh. Nhằm giúp học sinh tìm ra kiến thức bằng con đường ngắn nhất, nhanh nhất. Do vậy giáo viên cần nắm vững và sử dụng thành thạo các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới kế thừa được những ưu điểm của những phương pháp truyền thống, sử dụng đa dạng các hình thức học tập như thảo luận nhóm, đàm thoại, trực quan, luyện tập thực hành, trò chơiđể tiết dạy diễn ra một cách nhẹ nhàng tự nhiên và có hiệu quả. Ví dụ: Bài 23 “Cây hoa” * Hoạt động 1: Thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi. Bước 1: Học sinh quan sát tranh, thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi: Cây hoa được trồng ở đâu? - Học sinh quan sát, động não, thảo luận theo cặp. Bước 2: Làm việc cả lớp. - Giáo viên gọi đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận. - Giáo viên nhận xét và kết luận: Cây hoa được trồng chủ yếu ở trong vườn, trong chậu, một số loài trồng ở nước, bám vào cành cây, thân cây khác. Hoạt động 2: Kể tên các bộ phận của cây hoa Bước 1: Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ, giáo viên hướng dẫn làm việc nhóm: Hãy chỉ đâu là rễ, thân, lá, hoa của cây hoa. Sau đó thảo luận câu hỏi: Các bông hoa thường có đặc điểm gì mà ai cũng thích nhìn, thích ngắm? - Các nhóm so sánh các loại hoa có trong nhóm để tìm ra sự khác nhau về màu sắc, hương thơm giữa chúng. Bước 2: Giáo viên gọi đại diện 1 số nhóm lên trình bày trước lớp. Kết luận: Các cây hoa đều có rễ, thân, lá, hoa. Có nhiều loại hoa khác nhau, mỗi loại hoa có màu sắc, hương thơm, hình dáng khác nhau. Hoạt động 3: Trò chơi “Đố bạn hoa gì?” Bước 1: Giáo viên nêu các chơi với mục tiêu giúp học sinh nhớ được tên các loài hoa. Bước 2: Học sinh chơi nêu tên các loài hoa theo hình ảnh, hoa thật. Học sinh khác nhận xét. Giáo viên nhận xét khen học sinh và kết luận. 3. Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học Khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, việc sử dụng đồ dùng dạy học là cực kỳ quan trọng với tất cả các môn học. Đồ dùng dạy học quyết định sự thành công của một tiết dạy. Vì vậy, trước mỗi tiết dạy người giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy của mình. Giáo viên phải có phương pháp sử dụng thích hợp đối với mỗi loại thiết bị dạy học . Giáo viên cần sử dụng thiết bị dạy học như một nguồn cung cấp kiến thức chứ không phải để minh hoạ cho bài học, làm đẹp cho giờ học. Ngày nay khi bùng nổ công nghệ thông tin thì việc đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy là một thuận lợi lớn đối với mỗi tiết dạy. Vì vậy để làm được những tiết giáo án điện tử thành công người giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh trong thực tế để đưa vào bài giảng những hình ảnh đẹp nhất. Khi sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên cần phải lưu ý một số điểm sau: - Lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung bài học. - Cần nghiên cứu, sử dụng thành thạo các loại đồ dùng. - Lựa chọn đúng thời điểm phù hợp để đưa ra đồ dùng. - Cần huy động tối đa những đồ dùng học tập học sinh có thể chuẩn bị được để phục vụ cho các hoạt động tập thể, tranh ảnh, vật thật. Đối với học sinh cần phải chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng học tập đã được giáo viên giao, tham gia xây dựng bài học một cách hiệu quả. Ví dụ: Bài 25 “Con cá” Giáo viên và học sinh phải chuẩn bị, sưu tầm tranh ảnh hoặc cá thật để phục vụ cho bài học. Ví dụ: Bài 28 “Con muỗi” Ở hoạt động tìm hiểu một số biện pháp diệt muỗi, giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh, clip, vật thật để phòng và diệt muỗi như: Hương muỗi, bình xịt muỗi, vợt muỗi, đèn bắt muỗi, kem chống muỗi 4. Phối hợp Tự nhiên và Xã hội với các môn học khác. Trong trường Tiểu học các môn học có tác dụng bổ trợ lẫn nhau, môn nọ là nền tảng để học tốt môn kia. Vì vậy môn Tự nhiên và Xã hội là tư liệu phục vụ cho bài học, chúng là thực tế Tự nhiên và Xã hội, con người quanh các em. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải tích hợp kiến thức của các môn học có liên quan như : Tiếng Việt, Đạo đức để giúp học sinh có thêm kiến thức thu nhập thực tế vận dụng vào bài học. Ví dụ chủ điểm “Nhà trường”, “Gia đình” ở các bài trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 có mối quan hệ mật thiết với chủ đề “Tự nhiên”, “Xã hội” trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1. Trong bài tâp đọc “Cái Bống” có chủ đề luyện nói: Ở nhà em làm gì giúp đỡ bố mẹ? Giáo viên lồng ghép liên hệ với bài 13 môn Tự nhiên và Xã hội “Công việc ở nhà” để học sinh thấy rõ được ý thức, trách nhiêm cần giúp đỡ bố mẹ những công việc vừa sức để cha mẹ đỡ vất vả. Bài 20 môn Tự nhiên và Xã hội “An toàn trên đường đi học” kết hợp với bài Đạo đức “Đi bộ đúng quy định”. Qua bài học, học sinh biết cách đi bộ đúng quy định và an toàn trên đường đi học. - Học sinh biết đi bộ trên vỉa hè, nếu ở những nơi không có vỉa hè người đi bộ phải đi sát lề đường bên phải. - Không đi bộ dưới lòng đường, không đá bóng, đi dàn hàng 2 hàng 3 cản trở các phương tiện giao thông khác, dễ gây ra tai nạn. - Khi sang đường ở những nơi có ngã ba, ngã tư cần đi vào vạch sơn trắng và tuân thủ đèn tín hiệu giao thông hoặc sự điều khiển của cảnh sát giao thông. Tóm lại, nhờ phối hợp tốt Tự nhiên và Xã hội với các môn học khác mà trong quá trình học tập học sinh đã tích cực học tập, có nhiều hứng thú say mê khám phá kiến thức của bài học. 5. Tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức cho giáo viên và học sinh: Tự nhiên và Xã hội là môn học mang trong mình nhiều kiến thức thực tế hết sức phong phú và gần gũi về thế giới Tự nhiên và Xã hội, thế giới con người. Vì vậy, tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức thực tế cho giáo viên, học sinh là việc làm quan trọng đóng góp vào thành công trong công việc đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội không chỉ ở lớp 1 mà đối với tất cả các lớp tiểu học. * Đối với giáo viên: Thực tế cuộc sống rất phong phú đòi hỏi mỗi người cần phải không ngừng học và bồi dưỡng vốn hiểu biết. Hành trang kiến thức của người giáo viên cần được cập nhật và hoàn thiện cùng với sự phát triển của xã hội. Chúng ta không chỉ học ở sách báo, tạp
Tài liệu đính kèm: