- Thông thường giáo viên cho học sinh tập bài khởi động, tiếp đến là bài tập bổ trợ cho nội dung bài học. Khi thực hiện như vậy sẽ làm mất thời gian, vì vậy giáo viên có thể cho học sinh kết hợp hai bài tập thành một. Để làm được điều này giáo viên cần căn cứ vào từng loại hình của bài dạy để chọn những động tác vừa có tác dụng khởi động, vừa có tác dụng bổ trợ cho các động tác chính mà học sinh sẽ học tiếp ngay sau đó.
Ví dụ: Khi dạy nội dung: Chạy đà kết hợp với giậm nhảy của nhảy xa.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập luyện như sau:
+ Khởi động làm linh hoạt các khớp xương.
+ Chạy nhẹ nhàng và xác định chân giậm nhảy.
+ Giáo viên cho học sinh chạy nhẹ nhàng, khi tới vạch giới hạn thì giậm nhảy bật qua. Sau một số lần học sinh sẽ xác định được dùng chân giậm nhảy là chân phải hay chân trái.
+ Tiếp theo cho học sinh chạy nhẹ nhàng ba bước giậm nhảy bật đi xa.
+ Sau đó cho học sinh chạy nhẹ nhàng bật nhảy lên cao về phía trước, chạm vật chuẩn trên cao.
- Cách tập như bài tập trên đây đã bổ trợ cho kĩ thuật chạy đà, chạy đà giậm nhảy, giậm nhảy đi xa và giậm nhảy bật lên cao. Học sinh được tăng thời gian tập luyện kĩ thuật và kĩ năng của kĩ thuật nhảy xa. Khi học sinh được tập luyện nhiều, nghĩa là khối lượng vận động tăng, có ảnh hưởng tốt đến việc rèn luyện thể lực cho học sinh.
của mình đối với giáo viên dạy môn thể dục nói riêng phải có những phẩm chất và năng lực như: Thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có trình độ văn hoá sâu rộng, có tư duy mới, luôn tìm tòi nghiên cứu để đưa ra phương pháp giảng dạy phù hợp, đáp ứng yêu cầu của bộ môn. Đồng thời, người giáo viên thể dục cần phải có phẩm chất đạo đức, tâm lí tốt, tình cảm cao đẹp và cả ý chí, nghị lực, quyết tâm. Tất cả những đặc điểm đó có sự liên quan mật thiết với nhau để tạo thành một cấu trúc thống nhất nhằm nâng cao kết quả giảng dạy. - Theo thời gian công tác, kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục càng được nâng cao thì thể lực càmg bị giảm sút theo qui luật tự nhiên của con người, năng lực làm mẫu động tác bị hạn chế. Để khắc phục sự hạn chế đó, người giáo viên thể dục phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình, đặc biệt là trình độ lí luận về phương pháp khoa học và phương pháp tổ chức. - Đổi mới phương pháp dạy học xuất phát từ nhu cầu đổi mới sâu sắc nền kinh tế xã hội đang diễn ra trên đất nước ta. Công cuộc đổi mới này cần những người có bản lĩnh, có năng lực chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng với cuộc sống xã hội đang từng ngày từng giờ đổi mới. Thực tiễn này làm cho mục tiêu dạy học phải điều chỉnh kèm theo sự thay đổi về nội dung và phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là đưa phương pháp dạy học mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục. - Đổi mới phương pháp dạy học phải thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục học sinh, tạo điều kiện và khuyến khích học sinh tự giác học tập, phát huy và vận dụng kiến thức trong bài học vào thực hành luyện tập. Làm được như vậy sẽ phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo của từng học sinh, rèn luyện cho các em trở thành những người có đủ năng lực, sức khoẻ để tiếp tục học lên và bước vào cuộc sống. 2. Thực trạng của môn GDTC trong trường THPT. Trong những năm qua, thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy, chất lượng dạy học trong các nhà trường đã và đang từng bước đạt hiệu quả rõ rệt. Giáo viên đã quen dần trong việc lựa chọn phương pháp cũng như thiết kế bài dạy nhằm khơi dậy hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Thầy và trò đều chủ động trong việc tổ chức giờ học cũng như tiếp thu kiến thức. Với đặc trưng của bộ môn thể dục nhằm giáo dục thể chất, nâng cao thể lực cho học sinh nên việc đổi mới phương pháp ngoài mục tiêu tạo tiết học hứng thú, sôi nổi, hiệu quả còn rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản để tập luyện, giữ gìn sức khoẻ, nâng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, thói quen tự giác tập luyện TDTT, giữ gìn vệ sinh. Chính vì vậy việc chuẩn bị cho giờ dạy phải hết sức hợp lí, khoa học, tạo cho trò tâm lí tinh thần thoải mái, tự tin, yên tâm khi bước vào giờ học là điều hết sức cần thiết. Đó là yêu cầu không khó song còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ học tập, đặc biệt ý thức, trách nhiệm của người thầy đối với bài dạy. - Là giáo viên tôi cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và qua kết quả thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn nêu ra một vài suy nghĩ của mình làm thế nào để dạy và học môn thể dục đạt kết quả cao. 3. Tổ chức nghiên cứu: - Thời gian: SKKN được tiến hành từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 3 năm 2013. - Địa điểm nghiên cứu tại Trường THPT Chuyên -Tỉnh Lào Cai. - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh trường THPT Chuyên - Lào Cai. 4. Các biện pháp giải nhằm nâng cao chất lượng môn GDTC: 4.1. Vận dụng đổi mới phương pháp. - Nghiên cứu kĩ tài liệu giảng dạy, vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực. - Việc đổi mới phương pháp dạy học sẽ đem lại những tác động rất lớn, thường để lại những ấn tượng sâu sắc trong nhận thức và tình cảm của học sinh. Nó kích thích sự say mê, hứng thú luyện tập đối với môn thể dục, học sinh tích cực tập luyện thu được những tri thức mới, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo vận động, vận dụng được vào thực tiễn cuộc sống những phương pháp hay, những hình thức tổ chức hấp dẫn sẽ không dễ phai mờ trong kí ức học sinh. - Song song với việc thực hiện nghiêm túc những nội dung đã được qui định trong chương trình, giáo viên cần nghiên cứu và vận dụng đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp sao cho khoa học, linh hoạt, sáng tạo. Một trong các hướng đó là: 4.2. Chuẩn bị và soạn bài. *. Chuẩn bị: - Nghiên cứu tài liệu, sách giáo viên và hướng dẫn giảng dạy để xác định mục tiêu của bài dạy, nội dung của tiết học trên cơ sở đó xác định việc chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ, sân bãi cho chu đáo và phù hợp. - Nghiên cứu để vận dụng các hình thức tổ chức, các phương pháp dạy học cho phù hợp với tiết dạy. - Trên cơ sở xác định được mục tiêu của bài học, giáo viên chuẩn bị sân tập, hố cát và những đồ dùng dạy học có liên quan như: tranh vẽ các động tác thể dục, xà nhảy, đệm nhảy, bóng ..., nhắc nhở học sinh ngay từ cuối tiết học trước để các em chuẩn bị trang phục và dụng cụ học tập, tạo điều kiện để tiết dạy đạt hiệu quả cao. *. Bài soạn: - Bài dạy cần soạn trước ít nhất hai ngày để có sự chuẩn bị đồ dùng và nhắc nhở học sinh những nội dung cần thiết. Bài soạn phải thể hiện rõ ràng, khoa học, chính xác các hoạt động của thầy và trò trong việc đổi mới phương pháp dạy học. - Bài soạn cần thể hiện rõ các hoạt động với thời gian và khối lượng vận động, người chỉ đạo hoạt động do giáo viên hay cán sự lớp, tổ trưởng, nhóm trưởng. Ví dụ: Nội dung nhay cao Trong phần cơ bản, hoạt động ôn động tác nhảy cao Hoạt động của thầy - cán sự Thời gian Hoạt động của trò 1. Nhảy cao: - Giáo viên chỉ đạo lớp thực hiện với đội hình vòng tròn. - Cán sự tổ điều khiển tổ thực hiện: x x x x x x cs tổ 3 cs tổ 4 x x x x x x Giáo viên tổ chức lớp thực hiện x x x x GV x x x x x Chú ý: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện kết hợp với quan sát cả nhóm tổ 3 và 4. Sau 8 – 10 phút đổi nội dung, thực hiện giữa hai nhóm. 1– 2 phút 8-10 phút 8-10 phút - Học sinh đứng tại chỗ bật cao bằng 2 và 1 chân 3 nhịp và 5 nhịp, nhịp cuối bật cao co chân. - Tổ 3 và tổ 4: Tập bổ chạy đà giậm nhảy - Tổ 1 và tổ 2: Tập bổ trợ đà ba bước giậm nhảy đá lăng, chạy đà đặt chân vào điểm giậm nhảy, giậm nhảy đá lăng. 4.3. Các biện pháp thực hiện trên lớp: 4.3.1. Khâu kiểm tra - Cần kiểm tra độ an toàn của sân tập, hồ cát, đệm nhảy, sào nhảy... và kiểm tra sự chuẩn bị trang phục của học sinh, đồ dùng tập luyện. Đây là khâu quan trọng vì nếu không kiểm tra kĩ thì giáo viên sẽ không làm chủ được tiết dạy, độ an toàn của việc tập luyện không cao, tâm lí học sinh không thật sự vững vàng khi bước vào giờ học. 4.3.2. Giải thích kĩ thuật động tác cần ngắn gọn, chính xác. - Không nhất thiết phải giải thích kĩ quá. Khi học sinh đã học những vấn đề cơ bản ở các tiết trước không cần nhắc lại. Ví dụ: Không cần giải thích nhảy xa phải chạy đà nhanh, giậm nhảy mạnh, bật lên cao hay phân tích góc độ giậm chân, nhảy và góc độ bay trọng tâm cơ thể và những vấn đề khác. Vì như vậy sẽ mất nhiều thời gian lại không tập trung sự chú ý của học sinh vào kĩ thuật của động tác. Ví dụ về chạy đà, giáo viên chỉ cần nêu chạy đà trên một đường thẳng, chạy từ chậm đến nhanh, và giữ tốc độ ở những bước cuối, điều này có tác dụng giảm thời gian giải thích mà tăng thời gian luyện tập, rèn luyện kĩ năng nhảy xa cho học sinh. Xen kẽ giữa hai lần tập giáo viên nên cho học sinh nghỉ (một cách tích cực) để giáo viên giải thích thêm những điều học sinh chưa hiểu kĩ, củng cố và bổ sung những kiến thức có liên quan. Như vậy học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với luyện tập để nắm vững, củng cố và nâng cao kiến thức, kĩ năng vận động và rèn luyện thể lực cho học sinh. 4.3.3 Phối hợp khởi động và bổ trợ - Thông thường giáo viên cho học sinh tập bài khởi động, tiếp đến là bài tập bổ trợ cho nội dung bài học. Khi thực hiện như vậy sẽ làm mất thời gian, vì vậy giáo viên có thể cho học sinh kết hợp hai bài tập thành một. Để làm được điều này giáo viên cần căn cứ vào từng loại hình của bài dạy để chọn những động tác vừa có tác dụng khởi động, vừa có tác dụng bổ trợ cho các động tác chính mà học sinh sẽ học tiếp ngay sau đó. Ví dụ: Khi dạy nội dung: Chạy đà kết hợp với giậm nhảy của nhảy xa. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập luyện như sau: + Khởi động làm linh hoạt các khớp xương. + Chạy nhẹ nhàng và xác định chân giậm nhảy. + Giáo viên cho học sinh chạy nhẹ nhàng, khi tới vạch giới hạn thì giậm nhảy bật qua. Sau một số lần học sinh sẽ xác định được dùng chân giậm nhảy là chân phải hay chân trái. + Tiếp theo cho học sinh chạy nhẹ nhàng ba bước giậm nhảy bật đi xa. + Sau đó cho học sinh chạy nhẹ nhàng bật nhảy lên cao về phía trước, chạm vật chuẩn trên cao. - Cách tập như bài tập trên đây đã bổ trợ cho kĩ thuật chạy đà, chạy đà giậm nhảy, giậm nhảy đi xa và giậm nhảy bật lên cao. Học sinh được tăng thời gian tập luyện kĩ thuật và kĩ năng của kĩ thuật nhảy xa. Khi học sinh được tập luyện nhiều, nghĩa là khối lượng vận động tăng, có ảnh hưởng tốt đến việc rèn luyện thể lực cho học sinh. 4.3.4. Kết hơp làm mẫu của giáo viên với việc sử dụng tranh kĩ thuật. - Việc làm mẫu của giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu khi lên lớp, nếu không làm mẫu chuẩn thì học sinh sẽ không nắm được kĩ thuật dẫn đến việc tập luyện sẽ không chính xác, đặc biệt là khi dạy kĩ thuật mới. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân: trình độ chuyên môn, sức khoẻ, năng khiếu thể thao của giáo viên... nên việc làm mẫu của giáo viên còn gặp nhiều hạn chế nhất định như: làm mẫu không chuẩn, không dứt khoát, không rõ kĩ thuật. Để khắc phục những hạn chế đó, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh kĩ thuật giới thiệu và phân tích để học sinh nhận biết kĩ thuật, động tác dễ hơn. Mặt khác, học sinh vừa học vừa đối chiếu với hình vẽ để tự sửa chữa những kĩ thuật còn chưa đúng của mình. Nhưng cũng không nên lạm dụng tranh vẽ, mà phải suy nghĩ và tính toán xem sử dụng tranh kĩ thuật vào thời điểm nào, sử dụng như thế nào để phát huy được tác dụng của tranh kĩ thuật, học sinh có ấn tượng sâu và có hứng thú trong quá trình học tập. Ví dụ: Nội dung Nhảy xa Trong phần cơ bản, khi giáo viên giảng giải, phân tích kĩ thuật động tác nhảy xa sẽ kết hợp tranh kĩ thuật để học sinh nắm chắc tư thế và động tác. 4.3.5. Tổ chức lên lớp phải thực sự khoa học. Việc tổ chức học sinh luyện tập là khâu quan trọng và then chốt. Những tiết dạy của giáo viên chưa thành công cũng phần lớn là do khâu tổ chức luyện tập cho học sinh còn yếu. Các nhóm tổ hoạt động không thường xuyên, giáo viên phân việc chưa khoa học hoặc giáo viên không có kĩ năng bao quát, quản lí học sinh... Điều đó làm ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả của bài dạy, và như vậy kĩ năng vận động không thành, thể lực cũng không đạt. Do vậy, ngay từ khi soạn bài, chuẩn bị cho bài lên lớp giáo viên phải tính đến khâu tổ chức luyện tập thực sự khoa học, thể hiện ở những nội dung sau: - Vị trí luyện tập để học sinh quan sát được tranh kĩ thuật hay người làm mẫu, đứng cách nhau bao nhiêu để không ảnh hưởng đến nhóm, tổ khác. - Đội hình tập luyện: Xếp chữ U, L, hàng ngang, vòng tròn là tuỳ theo từng nội dung của từng bài, từng hoạt động. - Học sinh tập luyện theo nhóm lớn, nhóm nhỏ, đồng loạt hay luân phiên, động viên tất cả các em tham gia tập luyện, những em có năng khiếu kèm cặp, giúp đỡ những em tiếp thu chậm, nhút nhát. Có những nội dung chỉ phù hợp với nhóm nhỏ, nhưng có những hoạt động tổ chức cả lớp lại đạt hiệu quả, có hoạt động tổ chức theo vòng tròn hay nhóm thì mới đạt hiệu quả cao. - Việc sử dụng đồ dùng thiết bị cũng cần cân nhắc kĩ, sử dụng thiết bị, đồ dùng nào, số lượng bao nhiêu, sử dụng vào thời điểm nào là thích hợp. - Nếu tiết dạy mà chuẩn bị tốt những điều nêu trên đảm bảo sẽ thu được kết quả cao, tiết dạy có chất lượng, học sinh nắm chắc kiến thức và kĩ năng. 4.3.6 Tổ chức trò chơi. Thường xuyên tổ chức các trò chơi để gây hứng thú học tập. Giáo viên nghiên cứu kĩ các hoạt động và chuyển một số hoạt động thành trò chơi để thay đổi không khí học tập. Ví dụ: Trong tiết dạy Nhảy xa – Chạy bền. Trò chơi “Bật cóc tiếp sức” “ Chạy tiếp sức 10m” được tổ chức vào cuối tiết học. Sau phần cơ bản nhằm mục đích phát triển sức mạnh, thể lực và gây hứng thú cho học sinh. 4.4. Sử dụng tốt đồ dùng thiết bị và tận dụng điều kiện sân bãi của trường để dạy học. - Muốn sử dụng tốt đồ dùng, thiết bị trong môn thể dục, một điều cũng rất quan trọng là cần biết trong bộ đồ dùng có những đồ dùng nào sử dụng cho môn thể dục. Cần xem xét một lượt và ghi lại tên của từng loại đồ dùng. Ví dụ: - Đệm nhảy, xà nhảy sử dụng vào tiết .lớp. - Bóng đá sử dụng vào tiết ...... lớp ..... - Tranh kĩ thuật sử dụng vào tiết ....... lớp ............ - Bàn đạp, day đích ... sử dụng vào tiết .... 4.5. Công tác kiểm tra, đánh giá. Việc kiểm tra, đánh giá chiếm vị trí rất quan trọng. Nếu việc kiểm tra, đánh giá không thường xuyên sẽ dẫn đến việc học sinh chủ quan, xem nhẹ và không chú ý học tập và rèn luyện. Sau mỗi bài, mỗi chương đều có bài kiểm tra, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của bài đó, chương đó để kiểm tra cho sát kiến thức và đối tượng học sinh. Trong khi kiểm tra đánh giá, học sinh sẽ cùng giáo viên thẩm định kết quả của bạn bè. Việc chấm bài cũng rất chặt chẽ theo thang điểm chứ không làm qua loa đại kháI để đánh giá thực chất học tập, rèn luyện của học sinh. 5. Hiệu quả của áp dụng SKKN 5.1. Kết quả nghiên cứu: Qua một thời gian nghiên cứu với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp nhất là sự cố gắng của bản thân, tuy thời gian vận dụng và đúc rút kinh nghiệm chưa nhiều nhưng tôi tự nhận thấy đã thu được những kết quả đáng mừng như sau: - Trong các tiết dạy, học sinh đều sôi nổi, hứng thú học tập, tích cực và tự giác tham gia vào các hoạt động của tiết học, hạn chế hiện tượng học sinh rụt rè, nhút nhát ngại tham gia tập luyện. Trong giờ học các em mạnh dạn hỏi thầy, hỏi bạn những động tác, những kĩ năng khó hoặc chưa hiểu. Khi giáo viên phân công, tất cả các em nhóm trưởng, tổ trưởng điều khiển rất tốt hoạt động của nhóm mình, thi đua với nhau để tập luyện. Các kĩ năng của học sinh trở nên thành thục và linh hoạt, các động tác thể dục đã dứt khoát, kĩ thuật khá chuẩn mực. Học sinh vui vẻ, phấn khởi, tích cực tập luyện, có cơ hội được khẳng định mình trước tập thể, nâng cao được khả năng vận động của chính mình, tạo sự ham mê học tập, yêu thích giờ học. Giờ học thực sự là nhu cầu, là niềm vui của học sinh, từ đó chất lượng cũng được nâng lên. - Qua những giờ dạy theo phương pháp trên tôi nhận thấy chất lượng bộ môn nói chung và các bài dạy nói riêng, so với năm trước đã được nâng lên rõ rệt. Các em có ý thức tự giác, tích cực hơn trong tập luyện, thực hiện các kĩ thuật động tác tương đối tốt, số lượng học sinh đạt khá giỏi ngày càng nhiều, có nhiều em đạt thành tích cao được chọn vào đội tuyển nhà trường để dự thi HKPĐ cũng như các giải thể thao của tỉnh. * Cụ thể: Trong HKPĐ vừa qua, thành tích phong trào và mũi nhọn của nhà trường đã đạt được như sau: - Tổ chức HKPĐ cấp trường thu hút hơn 800 lượt học sinh tham gia thi đấu ở các nội dung, đông hơn số học sinh hiện có của nhà trường ( 780 học sinh) - Tham gia HKPĐ cấp Tỉnh với 140 học sinh, thi đấu ở tất cả các môn trong HKPĐ . - Thành tích cụ thể như sau: + Giải nhất các nội dung: Kéo co nữ, bóng rổ nam, bóng chuyền nữ, bắn nỏ toàn năng, võ, vật, đẩy gậy, đẩy tạ, bóng bàn, cờ vua. + Giải nhì các nội dung: Nhảy cao, đá cầu, cầu lông, bóng bàn, bắn nỏ cá nhân nữ, võ, vật, đẩy gậy, chạy tiếp sức 4 x 100m.... + Giải ba các nội dung: Bóng đá( nam, nữ) bóng rổ nữ, bóng chuyền nam, nhảy xa, chạy 100m, 200m.... + Đạt tổng số điểm là 620 điểm hơn thành tích HKPĐ lần thứ V năm 2008 là 402 điểm ( năm 2008 đạt 218 điểm), hơn đội xếp thứ nhì 102 điểm ( THPT Số 1 Lào Cai 518 điểm). Qua đó giúp nhà trường lần đầu tiên, vinh dự bước lên bục cao nhất khối THPT. Ngoài ra nhà trường còn tổ chức thành lập 6 câu lạc bộ thể thao cho học sinh đó là các CLB sau: Bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, cầu lông - bóng bàn, võ – vật, đá cầu. Các CLB hoạt động tuần 2 lần vào các buổi chiều sau các giờ tự học và phụ đạo đã thu hút hơn 100 học sinh tham gia. - Trên đây là những thành tích mà các em đã đạt được trong những năm học vừa qua. Có được những thành tích như vậy, người giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn giúp cho các em đạt được nhiều thành tích hơn nữa trong các năm học tiếp theo. III. Phần kết luận, Kiến nghị 1. Kết luận. Theo tôi thì người dạy cần đổi mới về việc sắp xếp các nội dung học tập của tiết học, đòi hỏi phải đổi mới tổ chức tập luyện theo hướng: - Mạnh dạn áp dụng các hình thức lên lớp: dòng chảy - phân nhóm - phân nhóm quay vòng. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên áp dụng các hình thức lên lớp cho linh hoạt. - Mệnh lệnh điều hành tập luyện cần phải rõ ràng, mạch lạc, nhanh gọn. - Cần chọn vị trí tập luyện thích hợp để khởi động, hổ trợ - học và tập luyện. Tránh tập hợp và di chuyển nhiều ảnh hưởng đến thời gian tập luyện của học sinh. - Mọi hoạt động diễn ra trong một tiết học phải là một bản kế hoạch chi tiết, giáo viên chủ động dẫn dắt học sinh thực hiện bản kế hoạch đó - (chính là giáo án). Giáo viên phải luôn đặt câu hỏi với chính mình: + Giáo viên nói cái gì? Làm như thế nào? + Học sinh tập trung ở đâu? Giáo viên đứng ở vị trí nào? Giáo viên cần phải chọn lựa kỹ càng. + Chọn động tác khởi động - bổ trợ nào? Đã thực sự bổ trợ cho bài học chính chưa? Nam tập gì ? Nữ làm gì và ngược lại? Giáo viên cần phải cân nhắc để phân phối thời gian hợp lý. + áp dụng các đội hình tập luyện nào cho phù hợp với sân trường của mình? + Thời gian dành cho mỗi một nội dung phải được tính toán cho phù hợp lượng vận động. + Những sai lầm mà học sinh thường mắc trong nội dung này là gì? Giáo viên phải dự kiến cách sửa chữa hiệu quả nhất. + Dự kiến các tình huống bất ngờ tai nạn và các biện pháp giải quyết (bảo hiểm, sơ cứu). Tóm lại, giáo viên phải suy nghĩ vạch ra một kế hoạch chi tiết cho thầy và cho trò. * Đối với học sinh: - Học sinh là nhân vật trung tâm, cho nên mọi hoạt động trên lớp phải có tác dụng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, phát huy những năng lực cá nhân của học sinh trong hoạt động thể dục thể thao. - Có trang phục riêng cho học sinh luyện tập thể dục thể thao. Trước mắt có giầy ba ta để tập luyện. Với trang phục thể dục thể thao, giầy ba ta sẽ giúp cho học sinh tập luyện tích cực hơn, mạnh dạn hơn. - Khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động thể dục thể thao ở trong và ngoài nhà trường như: tại các trung tâm thể dục thể thao, các câu lạc bộ thể dục thể thao, nhà văn hoá thanh thiếu nhi tỉnh * Đối với giáo viên: Giáo viên phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ để đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn. Phải dự giờ, trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài giảng mẫu để rút kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ sư phạm. 2- Kiến nghị:: Một là: Các cấp quản lý giáo dục, các GV cần quan tâm đúng mức đến công tác GDTC. Trước hết là cán bộ quản lý giáo dục phải có cách nghĩ, cách làm đúng về công tác GDTC, xem đây là một hoạt động không thể thiếu được trong nhà trường phổ thông. Hai là: Tăng cường công tác thanh, kiểm tra thường xuyên và liên tục. Nhằm để phát hiện và điều chỉnh kịp thời những hạn chế và sai sót trên. Đồng thời cũng phải tạo mọi điều kiện thuận lợi trong việc dự giờ học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp giữa những trường thuận lợi và trường khó khăn. Ba là: Tăng cường qui hoạch, đầu tư xây dựng đủ và hoàn chỉnh các sân chơi, bãi tập, các công trình phục vụ tập luyện và thi đấu cho học sinh. Bốn là: Tăng cường đầu tư trang, thiết bị phục vụ đủ và an toàn cho dạy và học. Trên đây là những suy nghỉ của cá nhân tôi không nằm ngoài mục đích là mong muốn đóng góp xây dựng cho Ngành nói chung và t
Tài liệu đính kèm: