Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lí luận.

Văn học, một môn học chứa đầy những nội dung phong phú, đa dạng

về văn hóa, sự sống, tinh thần, tư tưởng cùng tâm hồn của con người trong thế

giới từ xưa đến nay. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói “Văn học

nghệ thuật là một thứ vũ khí vô song”. Văn học là tấm gương phản ánh hiện

thực xã hội, là món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi người. Nó làm cho

tâm hồn ,tư tưởng, tình cảm thêm phong phú, biết nhạy cảm trước cái đẹp, cái

thiện của cuộc đời. Biết loại trừ cái xấu, cái ác trong cuộc sống.

Như chúng ta đã biết, vấn đề dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể

loại, theo thi pháp học hiện đại cho đến nay vẫn chưa hề cũ. Vì dạy tác phẩm

văn chương theo đặc trưng thể loại, theo thi pháp học hiện đại là một trong

những yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nói như Giáo sư Trần Đình Sử thì

“Thi pháp học hiện đại đem lại một lĩnh vực lí thuyết và văn hóa cảm nhận

giúp cho người đọc hiểu văn tinh tế hơn, sâu sắc hơn và có ý thức hơn”. Bởi

lẽ “Thi pháp là khoa học nghiên cứu các hình thức, các dạng thức, các phương

tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các

thể loại tác phẩm nhằm nắm bắt các hiện tượng của ngôn từ văn học”

(V.Vinogra dốp). Như thế, nghiên cứu đặc trưng thể loại, nghiên cứu thi pháp

học hiện đại để áp dụng trong quá trình giảng dạy là rất cần thiết. Nó khẳng

định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội

dung dạy - học Ngữ văn ở THCS theo chương trình SGK mới hiện nay.

pdf 25 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 665Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thể lục bát 
 - Thể song thất và song thất lục bát 
 - Thể hỗn hợp (hợp thể). 
 Trong SGK Ngữ văn 7 tập I các bài ca dao được đưa vào chủ yếu là thể 
lục bát (mỗi câu gồm hai dòng hay hai vế, dòng trên sáu âm tiết, dòng dưới 
tám âm tiết nên được gọi là “thượng lục hạ bát”). Đây cũng là thể thơ sở 
trường nhất của ca dao. Thể thơ này được phân thành hai loại là lục bát chính 
thể (hay chính thức) và lục bát biến thể (hay biến thức). Ở lục bát chính thể, 
số âm tiết không thay đổi (6 + 8), vần gieo ở tiếng thứ sáu (thanh bằng), nhịp 
thơ phổ biến là nhịp chẵn (2/2/2...), cũng có thể nhịp thay đổi (3/3 và 4/4) . Ở 
lục bát biến thể, số tiếng (âm tiết) trong mỗi vế có thể tăng, giảm (thường dài 
hơn bình thường). 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 8/25
Ví dụ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát 
 Đứng nên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông 
 (12 âm tiết) 
 c) Kết cấu của ca dao. 
 * Thể cách của ca dao. 
“Phú”, “tỉ”, “hứng” là ba thể cách của ca dao (cách phô diễn ý tình). 
- “Phú” ở đây có nghĩa là phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, không 
qua sự so sánh. 
Ví dụ: 
 Cậu cai nói dấu lông gà 
 Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. 
 Ba năm được một chuyến sai, 
 Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. 
- “Tỉ” nghĩa là so sánh (bao gồm cả so sánh trực tiếp - tỉ dụ và so sánh 
gián tiếp - ẩn dụ). 
Ví dụ: 
 Thân em như trái bần trôi, 
 Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ? 
- “Hứng” là cảm hứng. Người xưa có câu “Đối cảnh sinh tình”. Những 
bài cao dao trước nói đến “cảnh” (bao gồm cả cảnh vật, sự việc) sau mới bộc 
lộ “tình” (tình cảm, ý nghĩa, tâm sự) đều được coi là làm theo thể “hứng”. 
Ví dụ: 
 Ngó lên nuộc lạt mái nhà, 
 Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu. 
 * Phương thức thể hiện. 
Những bài ca dao trong SGK Ngữ văn 7 chủ yếu có ba phương thức thể 
hiện đơn là: 
- Phương thức đối lập (đối thoại), chủ yếu là bộ phận lời ca được sáng 
tác và sử dụng trong hát đối đáp nam nữ, bao gồm cả đối thoại hai vế và một 
vế. 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 9/25
Ví dụ: Đối thoại hai vế: 
 Ở đâu năm cửa nàng ơi 
 Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ? 
 Sông nào bên đục, bên trong ? 
 Núi nào thắt cổ bồng mà có thanh sinh ? 
 Đền nào thiêng nhất xứ Thanh 
 Ở đâu mà lại có thành tiên xây ? 
 Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi 
 Sông lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng 
 Nước sông Thương bên đục bên trong, 
 Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh 
 Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh 
 Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây” 
- Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật 
trong các loại tự sự). 
Ví dụ: 
 Con cò chết rũ trên cây, 
 Cò con mở lịch xem ngày làm ma. 
 Cà cuống uống rượu la đà, 
 Chim ri ríu rít bò ra lấy phần. 
 Chào mào thì đánh trống quân 
 Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao” 
- Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu 
tả khách quan trong các thể loại tự sự). 
Ví dụ: 
 Đường vô xứ Huế quanh quanh 
 Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
 Ai vô xứ Huế thì vô ... 
- Ngoài ra còn có cả ba phương thức kép là (trần thuật kết hợp với đối 
thoại, trần thuật kết hợp với miêu tả; kết hợp cả ba phương thức). 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 10/25 
- Do nhu cầu truyền miệng và nhu cầu ứng tác, nhân dân thường sử 
dụng những khuân, dạng có sẵn, tạo nên những đơn vị tác phẩm hoặc dị bản 
hao hao như nhau. 
Ví dụ: “Thân em như”... (“hạt mưa sa”, “hạt mưa rào”, “tấm lụa 
đào”, “trái bần trôi”...) 
 d) Thời gian và không gian trong ca dao. 
 * Thời gian: 
- Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan vừa là 
thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả. 
- Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng “chiều chiều”, “Chiều 
chiều xách giỏ hái rau”, “Chiều chiều ra đứng bờ sông”, “Chiều chiều lại nhớ 
chiều chiều”... “Chiều chiều” có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra 
lặp đi lặp lại. 
- Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng 
ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như: “bây giờ”, “tối qua”, “đêm qua”... thì ai 
cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ và nhắc lại chuyện 
vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian 
nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay phiếm định). Vì thế nó phù 
hợp với nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau. 
 * Không gian: 
- Không gian trong ca dao cũng vừa là không gian thực tại khách quan, 
vừa là không gian trong trí tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của tác 
giả. 
- Khi không gian thuộc về “đối tượng phản ánh, miêu tả thì là không 
gian thực tại được tái hiện trong ca dao”. Ví dụ: xứ Huế, xứ Thanh, sông Lục 
Đầu, sông Thương ... và những nơi khác trong ca dao, nhất là cao dao về 
phong cảnh và sản vật các địa phương. 
Ví dụ: 
 Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ 
 Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn. 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 11/25 
 Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố 
góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp 
hoặc gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả 
tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẩm mỹ của mình. Ví dụ: 
những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiếm 
chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình (“cánh đồng”, “thác”, 
“ghềnh”, “bờ ao”, “mái nhà”, “ngõ sau”...). Ngay cả những địa điểm có thực 
khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng. 
 d) Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu: 
 Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ 
thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). Ở đây tôi chỉ 
đề cập đến những thủ pháp chủ yếu. 
 - So sánh là thủ pháp nghệ thuật được dùng thường xuyên, phổ biến nhất, 
bao gồm so sánh trực tiếp (tỉ dụ), so sánh gián tiếp (ẩn dụ). Tỉ dụ là so sánh 
trực tiếp, thường có những từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể ... đặt 
giữa hai về (đối tượng và phương tiện so sánh). 
Ví dụ: 
 - Đường vô xứ Huế quanh quanh 
 Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
 - Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
 Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. 
 - Yêu nhau như thể chân tay 
 Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. 
 - Công cha như núi ngất trời 
 Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông. 
 - Còn ở ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so 
sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn một vế là phương tiện so 
sánh (ở đây đối tượng và phương tiện so sánh hòa nhập làm một). Do vậy mà 
hình thức ẩn dụ hàm súc hơn tỉ dụ. 
 Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ 
một cảnh ngộ đáng thương của người lao động: 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 12/25 
 Thương thay thân phận con tằm 
 Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ 
 Thương thay lũ kiến tí ti, 
 Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. 
 Thương thay hạc lánh đường mây, 
 Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. 
 Thương thay con cuốc giữa trời, 
 Dầu kêu ra máu có người nào nghe. 
 Đặc biệt ẩn dụ gắn rất chặt với nghệ thuật nhân hóa, dùng thế giới loài vật 
để nói thế giới loài người. 
 Ví dụ bài ca dao dưới đây mỗi con vật tượng trưng cho một loại người, 
hạng người trong xã hội xưa: 
 Con cò chết rũ trên cây, 
 Cò con mở lịch xem ngày làm ma. 
 Cà cuống uống rượu la đà, 
 Chim ri ríu rít bò ra lấy phần. 
 Chào mào thì đánh trống quân, 
 Chim chích cởi trần vác mõ đi giao. 
 - Biện pháp nghệ thuật đối xứng (đổi ý, đối từ): 
Ví dụ: 
 Số cô chẳng giầu thì nghèo 
 Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà. 
 Số cô có mẹ có cha 
 Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. 
 Số cô có vợ có chồng 
 Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. 
- Nghệ thuật trùng điệp (bao gồm cả điệp ý, điệp từ). 
Ví dụ: 
 Cái cò lặn lội bờ ao 
 Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 13/25 
 Chú tôi hay tửu hay tăm 
 Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. 
 Ngày thì ước những ngày mưa 
 Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. 
 - Nghệ thuật phóng đại được sử dụng hầu hết ở những bài ca dao dùng để 
châm biếm: 
Ví dụ: 
 Cậu cai nón dấu lông gà 
 Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai 
 Ba năm được một chuyến sai, 
 Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. 
Ngoài ra còn có một số biện pháp khác nữa. 
4.4. Phương thức diễn xướng. 
Phương thức diễn xướng gắn liền với các hình thức nghệ thuật của dân 
ca (hát ru, hát, hò đối đáp ...) 
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: 
1. Thuận lợi: 
Những năm học vừa qua tôi đã được trực tiếp giảng dạy Ngữ văn của 
các lớp 7. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy học sinh tiếp thu bài tương đối 
đều, số học sinh khá ở các môn chiếm tỷ lệ cao, học lực trung bình khá trở lên 
nhiều, các em có tinh thần ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng 
bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ trước khi đến lớp. 
Xác định đây là môn học quan trọng, chiếm số tiết cao trong chương 
trình học cho nên đa số học sinh có ý thức học tốt đầu tư nhiều thời gian. 
Bản thân tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng nghiệp. 
Tài liệu tham khảo của giáo viên và học sinh phong phú, việc ứng dụng 
công nghệ thông tin vào giảng dạy tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học 
để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo kịp với xu thế đổi mới hiện 
nay. 
2. Khó khăn: 
Nhà trường tuy đã được trang bị máy chiếu, máy vi tính nhưng trình độ 
tin học của một số giáo viên còn chưa cao. 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 14/25 
Một số học sinh trước khi đến lớp không học bài cũ, không chuẩn bị 
bài mới, một số em không có đồ dùng đầy đủ, do vậy làm ảnh hưởng không 
nhỏ đến chất lượng giờ dạy. 
Một số học sinh vào đầu năm học ý thức chuẩn bị bài còn chưa tốt, khả 
năng đọc - hiểu còn chậm, đặc biệt là khả năng nói còn rất kém. 
Một số em học sinh khi tìm hiểu bài không tuân thủ các bước: đọc văn 
bản, tìm hiểu phần chú thích, tìm hiểu nội dung và nghệ thuật, liên hệ với thực 
tế,do đó dẫn đến việc các em soạn bài và hiểu văn bản còn sơ sài. 
Học sinh còn phụ thuộc vào nhiều sách tham khảo. 
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH: 
1. Giới thiệu bài: 
 Mặc dù chỉ chiếm vài ba phút nhưng đây là khâu quan trọng giáo viên 
không nên bỏ qua. Trong giáo án giáo viên nên thể hiện cả dự kiến vào bài, 
khởi động tạo tình huống gây hứng thú học tập cho học sinh ngay từ phút đầu, 
có thể bằng câu hỏi tích hợp dọc. 
 Ví dụ khi dạy văn bản: Ca dao – dân ca 
 Những câu hát về tình cảm gia đình 
 Đây là tiết đầu tiên học sinh tìm hiểu khái niệm ca dao – dân ca, nhưng 
những câu, những bài ca dao các em đã được làm quen, được nghe từ nhỏ, rồi 
những năm tiểu học vì vậy tôi có thể vào bài như sau: 
 Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, được nằm trên chiếc nôi tre chúng ta 
đã được nghe tiếng ru ầu ơi của bà, của mẹ bằng những câu ca dao – dân ca, 
nó như dòng suối ngọt ngào, vỗ về, an ủi tâm hồn mỗi người. Khúc hát tâm 
tình của quê hương đã thấm sâu vào trái tim mỗi người dân Việt Nam mà năm 
tháng có qua đi cũng không thể phai mờ. 
Hỏi: Vậy bây giờ em nào có thể đọc cho cả lớp nghe một vài câu ca 
dao mà em thuộc hoặc đã được học ở tiểu học. 
- Sau đó giáo viên có thể tiến hành hoạt động liên môn khi sử dụng các 
làn điệu dân ca để gây tình huống. 
Hỏi: Trong môn Âm nhạc lớp 6 và lớp 7 các em đã được học một số 
làn điệu dân ca . Vậy một em hãy nêu rõ tên làn điệu dân ca đó. Nếu có thể 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 15/25 
em hát một vài câu cho các bạn nghe. (Đó là bài “Đi cấy” dân ca Thanh 
Hóa - lớp 6 và bài “Lí cây đa” dân ca quan họ Bắc Ninh - lớp 7). 
 *Chú ý: Hoạt động liên môn phải hết sức thận trọng, đúng thời điểm với 
một liều lượng cho phép. 
2. Phần dạy bài mới. 
 2.1. Đọc – chú thích. 
* Đọc: 
Về phương pháp dạy tác phẩm trữ tình nói chung và ca dao nói riêng 
việc đọc là khâu khá quan trọng: phải đọc cho “vang nhạc sáng hình”. Tác 
phẩm “chỉ được bắt đầu mở ra cho bạn đọc khi nó vang lên trong tâm hồn 
như một sự độc thoại bên trong” (Marantxman). Vì vậy ở thể loại trữ tình dân 
gian là ca dao phương pháp “đọc sáng tạo”, và biện pháp “đọc diễn cảm” có 
một vị trí đặc biệt quan trọng gần như chủ công. Đối với ca dao giáo viên nên 
cho học sinh đọc được từ mức thấp nhất cho đến mức cao . 
- Mức thấp nhất là đọc đúng, tròn vành, rõ chữ, đúng chính âm, chính 
tả. 
- Mức cao hơn là đọc diễn cảm, đọc diễn tả cảm xúc. 
- Mức cao nhất của đọc là đọc nghệ thuật (đọc hay). Đọc diễn cảm phải 
vươn tới tiệm cận với đọc nghệ thuật. Nhưng trong giờ dạy ca dao – dân ca thì 
đọc nghệ thuật không bao giờ thay thế cho đọc diễn cảm. Nếu có sử dụng đọc 
nghệ thuật (ngâm thơ, hát ru ...) chỉ với một liều lượng cho phép. 
- Đối với trình độ học sinh lớp 7 giáo viên chú ý rèn cho các em kĩ 
năng đọc diễn cảm. Thông qua việc đọc còn biết được trình độ học sinh. 
- Trong chương trình SGK Ngữ văn 7 những người biên soạn sách đã 
xác định rõ “thể” và chia nhóm của các bài ca dao vừa giúp giáo viên và học 
sinh xác định được trọng tâm của bài vừa thuận tiện cho việc xác định cách 
đọc. Tuy nhiên những bài ca dao ở cùng một đề tài thì tình cảm được thể hiện 
ở mỗi bài không hoàn toàn giống nhau vì vậy mà giáo viên cần phải xác định 
được điều này để hướng dẫn học sinh cho đúng giọng. 
* Chú thích: 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 16/25 
Chỉ giảng những chú thích sao, những chú thích liên quan đến nội dung 
cơ bản của văn bản. Những chú thích khác giáo viên tìm cách kiểm tra học 
sinh trong quá trình tìm hiểu, phân tích văn bản. 
 2.2. Phần đọc – hiểu VB: 
 a. Xây dựng hệ thống câu hỏi theo đặc trưng thể loại. 
Đặc trưng trong phân môn Văn là đi từ phân tích đến giảng bình. Giáo 
viên phải xác định được hệ thống câu hỏi phù hợp với đặc trưng thể loại. Như 
chúng ta đã biết phần lời của những câu hát dân gian thiên về tình cảm và 
biểu hiện lòng người, thường đan xen ở các cách thể hiện: phú, tỉ hoặc hứng. 
Nó sống được đến ngày nay là nhờ dân ca. Nhưng khi đưa vào nhà trường đã 
được văn bản hóa và vì vậy nó cũng được nghiên cứu như một tác phẩm nghệ 
thuật. Nhưng trong quá trình dạy học nó cũng cần được làm sống dậy môi 
trường dân gian ở dạng tinh, đơn giản, đủ để kích thích cảm thụ. Vì ca dao 
thuộc thể loại trữ tình dân gian cho nên trong quá trình phân tích giáo viên 
cần tăng cường câu hỏi cảm xúc, hình dung tưởng tượng và các câu hỏi về chi 
tiết nghệ thuật. Tạo điều kiện cho các em chóng thuộc và tiếp nhận những 
cách thể hiện độc đáo của ca dao. Ca dao thường nghiêng về vẻ đẹp trang 
trọng trong đời thường con người. Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật cần cố gắng 
huy động với một khối lượng đáng kể. 
 b . Hệ thống câu hỏi cảm xúc. 
Là hệ thống câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người đọc bị tác 
động bởi nội dung và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng ban đầu. Nó 
đi sâu vào cảm xúc thẩm mĩ. Trả lời hệ thống câu hỏi này, người đọc xác định 
được cảm xúc của mình khi đọc xong tác phẩm, thể hiện ấn tượng ban đầu 
của mình trước hình thức nghệ thuật hay nội dung trực tiếp có tính chất vật 
chất của tác phẩm. Ngay trong hệ thống nhỏ thứ nhất của loại câu hỏi cảm 
xúc đó cũng luôn xét đến sự chi phối của thể loại và lứa tuổi để có những câu 
hỏi vừa sức và không bị “nhàm sáo”, luôn luôn bám sát văn bản . Và rõ ràng, 
để có được câu hỏi thỏa mãn yêu cầu đó, người dạy cũng như người đọc 
không thể hời hợt với tác phẩm ngay từ phút đầu. Một số câu hỏi như: 
(1). Câu hỏi cảm xúc vật chất. 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 17/25 
Loại câu hỏi này thường được sử dụng trong các văn bản thuộc thể loại 
tự sự. 
(2). Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật. 
Là loại câu hỏi hướng về những rung động ban đầu của học sinh bởi tác 
động của những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, ngữ điệu nhạc tính trong 
thơ. 
Ví dụ: 
Hỏi: Kết cấu câu tám “Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” có 
gì đáng chú ý ? 
Học sinh: Có kết cấu “Bao nhiêu... bấy nhiêu” là cách nói tăng cấp 
thường gặp trong ca dao. 
Hỏi: Qua nhạc điệu, vần điệu của bài ca “Công cha như núi ngất 
trời” đã để lại cho em cảm giác gì ? 
Học sinh: Bài ca mang âm điệu ngọt ngào, du dương làm cho em cảm 
nhận thấy lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu lắng. 
Hỏi: Hình thức thể loại của bài ca “ở đâu năm cửa nàng ơi” có gì 
đặc biệt ? 
Học sinh: Đây là thể loại đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình giao 
duyên cổ truyền Việt Nam. 
Hỏi: Các điệp ngữ, đảo ngữ: Đứng bên ni đồng, đứng bên tê đồng, 
mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông gợi cho người đọc, người nghe 
cảm giác và ấn tượng gì ? 
Học sinh: Gợi cho chúng ta như đang đứng trước một cánh đồng rộng, 
nhìn hút tầm mắt, từ bên nào nhìn ra đều thấy sự rộng lớn của cánh đồng lúa 
đang thì con gái. 
 c. Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng. 
Sự tưởng tượng càng phong phú và mãnh liệt thì cảm xúc càng phát 
triển, khi nghiên cứu vấn đề này cả ĐUĐETXKI và LÊVINÔP đều cho rằng: 
“Các hình ảnh tưởng tượng của các em khác với biểu tượng của trí nhớ có 
tính chất cá biệt rõ rệt, hoặc có những dấu hiệu riêng biệt phong phú, hoặc 
ngược lại chỉ phản ánh cái chung không chỉ có chi tiết hóa một cách rõ ràng 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong chương trình ngữ văn lớp 7 – THCS 
 Page 18/25 
và xác định, Giai đoạn khó nhất của tưởng tượng là từ tái tạo đến tổng hợp 
các dấu hiệu khác nhau thành một hình ảnh toàn vẹn: sự tổng hợp này sẽ dễ 
dàng hơn nếu nó dựa trên tính chất trực quan của tri giác, đặc biệt để nắm 
được hình tượng nghệ thuật, học sinh cần phải biết kết hợp việc sử dụng một 
cách hợp lí tài liệu trực quan với việc độc lập dựa vào mô tả để tìm được hình 
tượng ... Tưởng tượng, tái tạo, tham gia vào tất cả các hình thức tái tạo của 
học sinh. Hoạt động sáng tạo ở mọi lứa tuổi này có rất nhiều vẻ. Và nhất là 
“phản ứng” với cái đẹp là cái mà cuộc sống biểu tượng hay là cái làm cho ta 
nhớ lại về cuộc sống. Đây là thời điểm để đem lại cho người đọc khoái cảm 
thẩm mĩ xen lẫn cảm xúc của liên tưởng nhất là khi tác động đến cái đẹp đa 
dạng của hình tượng. 
Hệ thống câu hỏi này thiên về sự hình dung của người đọc. Những câu 
hỏi giúp học sinh xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của hình 
tượng văn học. Hệ thống này gồm hai loại tái hiện và tái tạo. Một số câu hỏi: 
(1). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái hiện. 
Hệ thống câu hỏi này đòi hỏi thầy và trò tự xác định bức tranh nghệ 
thuật trong tâm hồn mình khi đọc văn bản hoặc khêu gợi trí tưởng tượng trong 
và sau khi đọc. 
Ví dụ: Khi dạy đến bài ca “Chiều chiều ra đứng ngõ sau” giáo viên có 
thể đặt câu hỏi. 
Hỏi: Em hình dung như thế nào về bóng dáng người phụ nữ trong 
bài ca dao này ? Hãy tả cho các bạn nghe. 
Học sinh có thể trả lời theo sự tưởng tượng của cá nhân mình: Đó là 
bóng dáng người phụ nữ cô đơn, đứng nơi ngõ sau trong buổi chiều hưu 
quạnh, đứng như tạc tượng vào không gian, cặp mắt đăm đắm ngóng trông về 
quê mẹ. 
*Chú ý: Những hình tượng có nội dung phong phú, có màu sắc xúc 
cảm là chỗ dựa tốt để nắm vững bài học ... Vai trò của giáo viên trong việc 
giáo dục năng lực tưởng tượng của học sinh là rất quan trọng, khéo léo dùng 
các biện pháp và phương pháp kích thích học sinh tạo nên các hình ảnh của 
những cái chưa bao giờ thấy “tránh chủ quan và bịa đặt”. 
Đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm ca dao - dân ca 
trong 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_cac_tac_ph.pdf