Sáng kiến kinh nghiệm Chỉ đạo giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Chỉ đạo giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1. Tính mới của sáng kiến:

5.1.1. Các giải pháp đã biết trước đó:

Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, có rất nhiều mô hình,

phương pháp, kĩ thuật, cách thức tổ chức dạy học tích cực được triển khai nhưng

phải mất rất nhiều thời gian không chỉ vài tháng mà cả hàng chục năm sau mới

áp dụng phổ biến. Thậm chí có phương pháp, mô hình dạy học mới nhằm phát

huy tính tích cực, chủ động của học sinh đến nay vẫn chưa thành công và bị bài

xích. Ví dụ:

- Phương pháp "hoạt động nhóm" được triển khai từ đầu những năm của

thập niên 90 nhưng phải gần hai chục năm sau mới được áp dụng phổ biến còn

trước đó, giáo viên chỉ dạy trong các tiết thao giảng, dự giờ có báo trước.

- Phương pháp "Bàn tay nặn bột" triển khai đã cả chục năm nhưng đến

nay chưa được phổ biến, và cùng chung số phận với phương pháp "hoạt động

nhóm", giáo viên chỉ dạy trong các tiết thao giảng, dự giờ có báo trước.

- Mô hình trường học mới "Vnen", có một số đơn vị áp dụng nhưng bị

phụ huynh phản bác kịch liệt và phải bỏ.

Các mô hình, phương pháp, kĩ thuật, cách thức tổ chức dạy học nêu trên

đều rất tân tiến, khoa học. Khi triển khai và áp dụng thì tất cả những chậm trễ,

hay thất bại của các hướng đổi mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của

người học do rất nhiều nguyên nhân mà tôi không đề cập ở đây, nhưng trong đó

có nguyên nhân: Khi triển khai đều bị giáo viên cho là mang nặng tính lý thuyết

còn thực tế áp dụng thì chưa chắc đã mang lại hiệu quả hoặc không phù hợp.

pdf 14 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 414Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Chỉ đạo giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế 
thờ ơ, thụ động. 
Phương pháp triển khai, chỉ đạo chưa lôi cuốn được sự chú ý của giáo 
viên; chưa có sự tương tác hai chiều giữa giáo viên với người triển khai. 
5.2.2.2. Nguyên nhân: Việc chỉ đạo giáo viên vận dụng các phương 
pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh còn hạn chế là 
do một số nguyên nhân cơ bản sau: 
+ Nguyên nhân chủ quan: 
- Chính cán bộ quản lý cũng đã phạm phải sai lầm khi triển khai các văn 
bản chỉ đạo, các chuyên đề của ngành liên quan đến các phương pháp dạy học 
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh như: trình chiếu nội dung hoặc 
cung cấp tài liệu của các văn bản rồi đọc các nội dung, tài liệu kết hợp với phân 
tích, giảng giải, thuyết trình.mà không có sự nghiên cứu kĩ các văn bản và 
soạn ra các câu lệnh định hướng cho giáo viên nghiên cứu, khai thác nội dung để 
giải quyết các vấn đề rút ra kiến thức cần nắm bắt. Phương pháp triển khai 
này chẳng khác gì phương pháp dạy học thiếu tích cực của giáo viên đối với học 
sinh (truyền thụ kiến thức) nên độ thẩm thấu, sự tường minh của quan điểm chỉ 
đạo không cao. 
 - Chính cán bộ quản lý cũng đã phạm phải tính lý thuyết, giáo điều, mang 
nặng lý luận khoa học mà chưa chú trọng đến các cơ sở lý luận thực tế khi triển 
khai quan điểm chỉ đạo các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ 
động của học sinh nên tính thuyết phục đối với giáo viên không cao.
4 
- Đặc biệt, khi chỉ đạo các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, 
chủ động của học sinh, người cán bộ quản lý không đưa ra được các minh chứng 
điển hình về tính hiệu quả của phương pháp dạy học mới mà một số giáo viên áp 
dụng thành công, đặc biệt là minh chứng do chính bản thân áp dụng thì càng tốt. 
+ Nguyên nhân khách quan: 
- Một số giáo viên do đã lớn tuổi, tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó khăn, 
ngại đổi mới, quen nếp dạy cũ; lười tư duy, nghiên cứu, tìm tòi nên thờ ơ trong 
việc tiếp thu các quan điểm, nội dung đổi mới phương pháp dạy học. 
- Phương pháp dạy học truyền thống theo kiểu truyền thụ kiến thức giúp 
giáo viên chủ động về thời gian hoàn thành kế hoạch bài dạy. Đây cũng là một 
lý do khiến giáo viên không chịu nghiên cứu các phương pháp dạy học theo 
hướng tích cực hóa hoạt động của người học mà người cán bộ quản lý triển khai. 
- Giáo viên thường có suy nghĩ không phục hoặc nghi ngờ về khả năng áp 
dụng, tính hiệu quả của quan điểm, phương pháp dạy học được triển khai như: 
"Nói thì dễ nhưng làm thì khó" hoặc "Ông ấy làm Hiệu trưởng, có dạy học đâu 
nên nói mạnh vậy thôi chứ thực dạy mới biết khó khăn nhiều bề liệu có thực 
hiện . được không". 
5.2.3. Biện pháp thực hiện: 
5.2.3.1. Sử dụng các minh chứng lồng ghép với các nội dung, lý luận 
của các giáo trình, văn bản trong quá trình triển khai, chỉ đạo. 
Đúng như câu tục ngữ: "Có thực mới vực được đạo", 3 minh chứng thuộc 
3 lĩnh vực khác nhau về tính hiệu quả của việc áp dụng phương pháp dạy học 
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh mà tôi nêu ra đây không phải là để 
khoe thành tích của bản thân mình mà để chứng minh hiệu quả tất yếu của việc 
áp dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, 
sáng tạo của người học: 
Minh chứng 1: 
Năm học 2006 - 2007, năm đầu tiên tôi trở về dạy trường tiểu học Thanh 
Lương A cho đúng chuyên ngành đào tạo (Các năm trước tôi được kê cấp dạy 
THCS Thanh Lương do cấp học này thiếu giáo viên). Trở về dạy Tiểu học, tôi 
nhận ra có rất nhiều vấn đề về cách học của học sinh, tôi trăn trở rất nhiều, tìm 
hiểu nguyên nhân và đi đến kết luận: Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng học 
tập thiếu khoa học của học sinh là do các phương pháp dạy học chưa phát huy 
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. 
Năm đó tôi được phân công dạy lớp 4.4. Đối với 1 giáo viên nam dạy tiểu 
học kiêm công tác chủ nhiệm thì khó khăn lớn nhất là tập luyện cho các em 
tham gia các phong trào, nhưng với quan điểm: "phát huy tính tích cực, chủ 
động, sáng tạo của người học" trong công tác dạy học nói chung và xây dựng 
phong trào nói riêng, các phong trào lớp tôi tham gia đều đứng nhất nhì trường 
vượt trên cả lớp tuyển chọn của trường. Các kết quả tôi nêu dưới đây có cô 
Nguyễn Thị Bình giáo viên trường mình làm chứng vì hết học kì 1 tôi chuyển 
5 
công tác về trường mới và bàn giao lớp cho chính cô Bình khi đó còn dạy trường 
tiểu học Thanh Lương A cùng tôi. Cụ thể: 
Trong học kì I năm đó, trường tổ chức 4 phong trào thì cả 4 phong trào 
lớp tôi đều đứng nhất, nhì: 
- Phong trào văn nghệ lớp tôi tham gia 3 tiết mục đều đạt giải: Giải nhất 
tam ca, giải nhì đơn ca và giải ba song ca. 
- Phong trào thi viết chữ đẹp lớp tôi đạt giải nhất. 
- Đạt giải nhất thi kể chuyện theo sách. 
- Đạt giả nhì thi báo tường. 
Là giáo viên nam nên việc làm mẫu tập luyện cho các em các tiết mục văn 
nghệ nhất là các động tác múa phụ họa là rất khó. Tôi giao nhiệm vụ cho học 
sinh, gợi ý các em, động viên, khích lệ các em tự nghiên cứu chọn bài hát, câu 
chuyện. Tôi nhờ các anh chị cấp 2 biên đạo động tác múa phụ họa cho các em. 
Tôi thường tranh thủ đầu giờ học hoặc giờ ra chơi để hỏi thăm, yêu cầu các em 
trình diễn thử, khích lệ, khen ngợi và có các nhận xét mang tính chất điều chỉnh 
kèm động viên khiến các em cảm nhận được sự quan tâm, khích lệ của giáo viên 
nên quyết tâm tập luyện nghiêm túc để lập công với thầy. Đối với luyện viết chữ 
đẹp, do chữ tôi quá xấu lại không đúng mẫu chữ nên không thể viết mẫu cho học 
sinh. Tôi soạn các nội dung về các quy định của mẫu chữ nói chung và các mẫu 
chữ đứng nét đều, chữ đứng nét thanh nét đậm, chữ nghiêng nét đều, chữ 
nghiêng nét thanh nét đậm, chữ sáng tạo, cách viết và thay vì giảng giải cho 
học sinh, tôi giao tài liệu cho học sinh tự đọc nghiên cứu đồng thời gạch chân 
các từ, cụm từ quan trọng trong văn bản thầy đưa cho nhờ vậy mà học sinh nắm 
rất vững các quy định về mẫu chữ, cách viết. Tương tự như đối với phong trào 
văn nghệ, tôi dành thời gian hỏi thăm, xem bài luyện viết của học sinh, khen 
ngợi, khích lệ và nhận xét điều chỉnh. 
Tóm lại, trong cả các lĩnh vực mà tôi có nhiều hạn chế về năng khiếu 
nhưng nếu có phương pháp tác động đúng, phát huy được tính tích cực, chủ 
động của học sinh thì hiệu quả đem lại sẽ rất cao. 
Minh chứng 2: 
Cũng ngay trong năm học 2006 - 2007, sau khi kết thúc học kì I, ngày 
01/01/2007 tôi chuyển về công tác tại trường Tiểu học Thanh Phú B, do về giữa 
năm nên tôi không có lớp để dạy, may mắn là tôi không phải dự trữ mà được 
Ban giám hiệu phân công dạy môn thể dục dù tôi không được đào tạo chuyên 
ngành thể dục. Tại thời điểm này đã gần ngày diễn ra Hội khỏe phù đổng cấp 
huyện (tổ chức vào trung tuần tháng 2). Do trước khi tôi về, trường không có 
giáo viên nam và giáo viên dạy chuyên thể dục nên công tác huấn luyện các đội 
tuyển chưa được thực hiện. Nhằm đáp ơn Ban giám hiệu đã phân tôi được dạy 
để tôi được hưởng phụ cấp đứng lớp và với quyết tâm lập thành tích cho trường, 
tôi bắt tay ngay vào công tác vừa dạy vừa huấn luyện tất cả các môn trong hệ 
thống thi đấu với phương châm: "phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của 
6 
người học" làm nền tảng cho mọi phương pháp huấn luyện, tác động đến học 
sinh. Nhờ vậy mà các đội tuyển của trường nhanh chóng đi vào nề nếp, các em 
tập luyện với tâm thế tích cực, tinh thần hăng hái, tập trung cao độ, cố gắng hết 
mình, thời gian tập luyện khoa học và nghe lời thầy dặn là phải tích cực học đầy 
đủ các môn văn hóa khác để được gia đình ủng hộ cho tập luyện thể thao. Trong 
vòng vỏn vẹn chỉ 2 tháng, đoàn thể thao của trường tham gia Hội khỏe phù đổng 
cấp huyện Bình Long đạt giải nhất toàn đoàn (đứng đầu 24 trường Tiểu học). 
Các môn trường tham gia đều nằm trong tốp đầu. Đặc biệt là 2 môn đá cầu và 
bóng bàn, trường tôi không chỉ đứng đầu huyện mà 2 đội tuyển này còn giúp 
đoàn Hội khỏe phù đổng Huyện Bình Long đứng đầu tỉnh của 2 bộ môn này, 
trong đó môn đá cầu đoạt toàn bộ các huy chương vàng và bạc cấp tỉnh. 
Kết luận: Nếu các phương pháp huấn luyện của tôi (thực chất là dạy thể 
thao) không chú trọng "phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người 
học" thì làm sao mình tôi có thể vừa dạy học, vừa huấn luyện tất cả các đội 
tuyển nhanh chóng đi vào nề nếp được cùng với đó là sự tiến bộ vô cùng nhanh 
chóng của các em ở tất cả các môn thi. Một đơn vị nhỏ, có số lượng học sinh ít 
như trường tiểu học Thanh Phú B có thể đứng đầu 24 trường Tiểu học khi tham 
gia Hội khỏe phù đổng cấp huyện Bình Long chính là nhờ sự tích cực, chủ động 
của các em trong suốt quá trình tập luyện và thi đấu. Nhờ đạt thành tích cao 
trong công tác bồi dưỡng học sinh năng khiếu thể dục thể thao mà Sáng kiến tôi 
viết về lĩnh vực này được công nhận cấp tỉnh. 
 Minh chứng 3: 
Năm học 2010 - 2011 tôi được bổ nhiệm làm Phó hiệu trưởng trường Tiểu 
học Thanh Bình, cũng trong năm học này ngành giáo dục Bình phước triển khai 
phong trào luyện giải toán Violympic trên mạng internet do Bộ Giáo dục biên 
soạn và quản lý. Đây là phong trào gây rất nhiều khó khăn và lo lắng cho tập thể 
cán bộ, giáo viên trường Tiểu học Thanh Bình nên khi tôi triển khai thì tập thể 
giáo viên bày tỏ khó khăn: Học sinh của trường có tới 40% là học sinh dân tộc 
Xtieng, số còn lại thì kĩ năng tư duy giải Toán rất hạn chế vì đa số là con em lao 
động phổ thông có hoàn cảnh kinh tế khó khăn ít được quan tâm, các em không 
có khả năng tiếp thu cách giải các dạng toán khó trên trang Violympic. Đặc biệt, 
trong đó có lý do: Đa số các bài toán trên trang Violympic đều trên chuẩn, rất 
khó đối với giáo viên nên đề nghị thầy hiệu phó giải trước rồi hướng dẫn giáo 
viên cách giải từ đó giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh. Đây là cách dạy mà tôi 
hoàn toàn không đồng ý vì dạy như vậy là truyền thụ kiến thức và tạo thói quen 
bắt chước, rập khuôn đồng thời không phát triển tư duy cho học sinh. 
Bản thân tôi đã từng công tác ở nhiều trường khác nhau từ Trung học cơ 
sở đến Tiểu học, tôi thấy việc đào tạo đội tuyển học sinh giỏi của đa số giáo viên 
đi theo phương pháp "luyện bộ đề". Tức là giáo viên sưu tầm hàng chục hoặc 
hàng trăm bộ đề tùy theo môn với rất nhiều dạng bài tập khác nhau, nghiên cứu 
cách giải rồi hướng dẫn học sinh cách giải các dạng bài tập đó đồng thời giao 
nhiều bài tương tự để học sinh làm thêm cho thành thục nên sau mỗi kì thi thì kẻ 
cười, người khóc do trúng dạng đề hoặc không trúng dạng đề. Tôi chỉ đạo giáo 
7 
viên bồi dưỡng kĩ năng giải Toán cho học sinh với phương châm "phát huy tính 
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học". Tức là thay vì hướng dẫn cách giải 
cho học sinh thì giáo viên cần bồi dưỡng các kĩ năng tư duy giải toán khoa học 
cho học sinh. Cụ thể: 
- Giúp cho học sinh hiểu: “Thế nào là đọc kĩ đề bài?” 
Tình huống đặt ra là: Có phải đọc kĩ đề bài là đọc nhiều lần đề bài không? 
Đọc kĩ đề bài là vừa đọc vừa tư duy để tìm hiểu đề bài (Thâm nhập đề 
bài) chỉ đọc lại những câu, từ, cụm từ chưa hiểu để suy ngẫm, hiểu rõ các dự 
kiện và yêu cầu của đề bài. Chứ không phải là đọc nhiều lần đề bài và càng 
không nên đọc thuộc đề bài mà không hiểu đề bài. 
- Rèn cho học sinh kĩ năng “Thâm nhập đề bài”: 
Yêu cầu học sinh đọc thầm, không đọc thành tiếng đề toán nhằm tập trung 
tư duy nắm bắt các dự kiện đề bài đã cho: Những đại lượng nào được nêu trong 
đề bài? Giá trị của mỗi đại lượng? Các mối quan hệ toán học giữa các đại 
lượng?... Đồng thời xác định rõ yêu cầu của đề bài là đi tìm đại lượng nào? Giá 
trị tương đối hay giá trị tuyệt đối? ... 
- Giúp học sinh phân tích đề bài “tích cực”: 
Phân tích đề bài là người học phải có khả năng phân tích dữ kiện đề bài đã 
cho để hiểu rõ hơn những gì mình đang có. Khả năng phân tích càng chi tiết thì 
mình càng có tiềm năng tìm ra lời giải. Phân tích câu hỏi là việc tách câu hỏi để 
có thể trả lời từng phần một cách rõ ràng hay dự đoán những phương pháp có 
khả năng sử dụng để giải quyết vấn đề. Việc bóc tách vấn đề giúp việc trả lời 
câu hỏi phụ dễ hơn, còn liệt kê các phương pháp giúp dự đoán cách giải dựa trên 
thông tin được đưa ra. 
- Rèn kĩ năng phân tích đề bài qua mô hình trực quan cho học sinh. 
Việc sử dụng các mô hình trực quan như biểu đồ ven, biểu đồ quạt, đặc 
biệt là sơ đồ đoạn thẳng (Vì sơ đồ đoạn thẳng là kiểu mô hình trực quan vừa dễ 
vẽ lại dễ phân tích, dễ nhận diện qua quan sát) để phân tích đề bài giúp cho học 
sinh nắm bắt những thông tin của các phần đã cho và phần cần tìm một cách cụ 
thể, tường minh. Học sinh sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc xác định mối 
quan hệ giữa đại lượng cần tìm với các dự kiện đề bài đã cho và các thông tin có 
liên quan để làm cơ sở quan trọng cho tư duy tìm ra cách giải cho bài toán. 
- Giúp học sinh tư duy logic, khoa học bằng phương pháp phân tích – 
tổng hợp: 
Phương pháp này thường áp dụng cho việc giải các bài toán hợp ở Tiểu 
học. Nguyên tắc cơ bản của việc giải các bài toán hợp là phân tích bài toán hợp 
thành các bài toán đơn rồi xây dựng kế hoạch giải bằng cách lần lượt giải các bài 
toán đơn. Việc phân tích đề toán được bắt đầu từ câu hỏi của đề bài, liên hệ với 
các dự kiện đề bài đã cho và các kiến thức đã được học để đi tìm hướng giải cho 
bài toán. 
8 
- Phát triển, nâng cao kĩ năng tư duy giải toán cho học sinh bằng 
phương pháp phân tích đề bài – tìm giải pháp. 
Phương pháp phân tích – tìm giải pháp thường dùng để phân tích các bài 
toán hợp có mối quan hệ giữa các phần khá phức tạp như: Thông qua đại lượng 
trung gian nhưng không được nêu trực tiếp trong đề bài hoặc thông qua các thuật 
ngữ toán học mới lạ, khó xác định được mối quan hệ giữa các thành phần trong 
đề bài... Đây là phương pháp đòi hỏi học sinh phải tư duy ở mức độ cao. Học 
sinh không những phải biết phân tích các mối quan hệ giữa các đại lượng được 
nêu trong đề bài mà còn phải phối hợp, liên hệ các kiến thức đã được học có liên 
quan với đề bài. Đồng thời phải có kĩ năng “tìm – đoán” hướng giải cho bài toán 
một cách có cơ sở, khoa học nhằm xây dựng phép tính giải, kế hoạch giải. 
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần lưu ý học sinh: Trong quá 
trình phân tích đề bài – tìm giải pháp thì: Giải pháp mà chúng ta tìm và đoán có 
thể đúng nhưng cũng có thể sai. Nếu sai thì quá trình phân tích lại được tiến 
hành lại nhưng theo hướng khác (Tìm – đoán lại). 
Ví dụ: Tổng của 2 số tự nhiên là 2021. Giữa 2 số có 15 số tự nhiên lẻ. 
Tìm 2 số đó. 
Quá trình phân tích đề bài tìm giải pháp có thể tiến hành như sau: 
Với dự kiện đề bài đã cho, liên hệ với các quy tắc nâng cao về dãy số tự 
nhiên thầy đã dạy và các dạng toán hợp điển hình đã học, phán đoán ban đầu 
học sinh có thể đưa ra là: 
Phải chăng đây là dạng toán "Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số"? 
Liên hệ với quy tắc nâng cao: "Hiệu của 2 số tự nhiên bằng số số hạng ở 
giữa 2 số cộng thêm 1". Đồng thời liên hệ với dự kiện thứ nhất của đề bài, học 
sinh tiếp tục phân tích: 
Tổng của 2 số là 2021 - đây là số tự nhiên lẻ, suy ra 2 số tự nhiên cần tìm 
chắc chắn có 1 số chẵn và 1 số lẻ (Vì 2 số tự nhiên cùng chẵn hoặc cùng lẻ thì 
đều cho tổng là số tự nhiên chẵn). Điều này cho thấy số các số tự nhiên lẻ và số 
các số tự nhiên chẵn ở giữa 2 số cần tìm là bằng nhau nên số số hạng ở giữa 2 số 
cần tìm là 15 x 2 = 30. áp dụng quy tắc nâng cao về dãy số tự nhiên (Hiệu của 
hai số trong dãy số tự nhiên bằng số số hạng ở giữa hai số cộng thêm 1), học 
sinh tìm được hiệu của 2 số là: 30 + 1 = 31. 
Đến đây thì dự kiện thứ 2 của đề bài đã được làm sáng tỏ. Phán đoán ban 
đầu là đúng. Từ bài toán lạ học sinh đã phân tích và đưa về dạng toán quen 
thuộc (Quy lạ về quen) là: 
Tổng của 2 số tự nhiên là 2021. Hiệu của 2 số đó là 31. Tìm 2 số tự nhiên 
đó. 
Bài toán khó ban đầu đã được phân tích đưa về bài toán điển hình đã học. 
Học sinh chỉ việc áp dụng quy tắc giải để giải tiếp bài toán: 
Số bé là (lấy tổng trừ hiệu rồi chia cho 2): (2021 - 31) : 2 = 995
9 
Số lớn là: 995 + 31 = 1026 
* Kết luận: 
Với quan điểm: "phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người 
học" trong việc bồi dưỡng học sinh giải toán violympic mà tôi trình bày ở trên, 
học sinh trong đội tuyển giải toán violympic trường Tiểu học Thanh Bình được 
bồi dưỡng tư duy giải toán khoa học, các em tự tin tham gia các kì thi giải toán 
violympic các cấp. Trong 3 năm học từ 2010 - 2011 đến năm học 2012 - 2013, 
trường Tiểu học Thanh Bình luôn đứng nhất, nhì cấp thị xã và nhận được sự tôn 
trọng, nể phục từ các đơn vị bạn. Đặc biệt trong 2 năm tham gia cấp tỉnh (Do 
năm học 2011 - 2012 bị nghẽn mạng tỉnh không tổ chức được) học sinh trường 
tiểu học Thanh Bình đứng đầu thị xã Bình Long về thành tích đạt giải cấp tỉnh (1 
giải nhất toàn diện về điểm số và thời gian cùng 2 giải ba). 
5.2.3.2. Chuẩn bị trước các câu hỏi định hướng giáo viên thảo luận, 
nghiên cứu rồi mới đưa ra kết luận về các nội dung cần triển khai, quán 
triệt với giáo viên: 
Ví dụ: Khi tôi triển khai chuyên đề: Thuật nhẩm nhanh và ghi nhớ kết 
quả các bảng nhân. (Trích 1 phần trong sáng kiến mà tôi đã đậu cấp tỉnh) 
* Các câu hỏi tôi soạn để giáo viên thảo luận, nghiên cứu là: 
- Thực trạng việc học và ghi nhớ các bảng nhân của học sinh như thế nào? 
- Nguyên nhân nào dẫn đến những tồn tại của học sinh khi học các bảng 
nhân? 
- Biện pháp khắc phục các tồn tại đã nêu của các thầy (cô) như thế nào? 
Có phương pháp hay kĩ thuật dạy học mới nào giúp học sinh thuận lợi hơn khi 
học các bảng nhân không? 
* Mỗi câu hỏi đều được tôi nghiên cứu kĩ và soạn sẵn đáp án, phương án 
giải quyết vấn đề cùng với quan điểm tôi sẽ chỉ đạo giáo viên: 
- Thực trạng việc học và ghi nhớ các bảng nhân của học sinh: 
Nhiều em có biểu hiện thuộc vẹt bảng nhân như: Khi cần kết quả của 
phép nhân bất kì trong bảng nhân. Các em phải đọc thuộc lòng bảng nhân theo 
thứ tự từ phép nhân với 1 đến phép nhân cần tìm nên mất rất nhều thời gian. 
Một số em đã thuộc vẹt bảng nhân rồi quên. Thậm chí đọc thuộc lại rồi lại 
quên. Đặc biệt sau thời gian nghỉ hè, số học sinh quên các bảng nhân lại tăng 
thêm. 
- Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại của học sinh khi học các bảng nhân: 
 Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cách học thuộc lòng, thuộc vẹt các bảng 
nhân của học sinh. Nhưng nguyên nhân cơ bản và cốt lõi nhất đó là do giáo viên 
đã không nghiên cứu kĩ, không nhận thức sâu sắc vai trò của 2 cơ sở toán học 
hết sức quan trọng khi thiết lập các bảng nhân đó là: "Mối quan hệ giữa phép 
nhân với phép cộng các số hạng bằng nhau"; "Mối quan hệ giữa các phép nhân
10 
trong bảng nhân với nhau" nên dẫn đến sai lầm trong phương pháp dạy học cũng 
như các biện pháp giúp đỡ học sinh học các bảng nhân. Thậm chí nhiều giáo 
viên không hiểu hàm ý chỉ đạo trong phần lý thuyết của các bài bảng nhân mà 
ban biên tập sách giáo khoa đã định hướng, gợi ý nên dạy phớt qua phần lý 
thuyết rồi cho học sinh đọc thuộc lòng bảng nhân, thậm chí còn cho đọc đồng 
thanh. 
- Biện pháp khắc phục các tồn tại đã nêu; phương pháp, kĩ thuật dạy học 
giúp học sinh thuận lợi hơn khi học các bảng nhân: 
Đặt vấn đề: 
 Thử hỏi: Một bài thơ có nội dung và vần điệu hẳn hoi – đó là các yếu tố 
giúp học sinh dễ thuộc, dễ nhớ mà muốn học thuộc lòng và ghi nhớ được lâu 
cũng cần phải có sự cảm nhận sâu sắc về nội dung cũng như phương pháp học 
tập tích cực. Vậy thì đối với các phép nhân trong bảng nhân thì sao? Có phải đó 
là các phép tính khô khan, khó thuộc và khó nhớ không? 
Câu trả lời được khẳng định là: “Không”. Đó đều là các phép tính mang 
nhiều ý nghĩa và rất thú vị về mặt toán học. Bảng nhân chỉ được hình thành và 
khắc sâu trong trí nhớ của học sinh khi và chỉ khi trải qua các hoạt động tư duy 
tích cực. 
Giải quyết vấn đề (Quan điểm chỉ đạo): 
Tôi xin thông qua phần thiết lập bảng nhân như phương pháp chủ đạo mà 
sách giáo khoa đã gợi ý (Phương pháp quy nạp có sử dụng các mối quan hệ toán 
học "Mối quan hệ giữa phép nhân với phép cộng các số hạng bằng nhau"; "Mối 
quan hệ giữa các phép nhân trong bảng nhân". 
Tôi xin trình bày một số nguyên tắc quán triệt t

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_chi_dao_giao_vien_van_dung_cac_phuong.pdf