Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn cho học sinh hiểu và giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức như sau:
- Cho các em đọc kĩ đề toán, hiểu một số từ khóa quan trọng và kết hợp với sử dụng hình ảnh để các em hình dung được nội dung của đề toán.
- Hướng dẫn tìm hiểu bằng các câu hỏi gợi mở: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?
- Gạch chân (chuyển màu chữ) và giải thích một số từ khóa quan trong của bài toán.
Ví dụ:Bài: Giải toán có lời văn – Trang 117 sách giáo khoa.
Bài 1:An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có tất cả mấy quả bóng?
Giáo viên sẽ hướng dẫn như
- Cho HS đọc đề bài toán kết hợp với quan sát tranh.
- Hướng dẫn học sinh phân tích đề toán dựa trên câu hỏi:
+ Bài toán cho biết gì?(An có 4 qủa bóng, Bình có 3 quả bóng)
+ Bài toán hỏi gì? (Cả hai bạn có tất cả mấy quả bóng)
- Gạch chân những dữ kiện quan trọng của đề toán:
Bài 1:An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng.Hỏi cả hai bạn có tất cảmấy quả bóng?
Qua bài toán này sẽ giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của bài toán có lời văn.
c tế giảng dạy tại trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi cũng như sự phản ảnh của các giáo viên lớp trên là việc học sinh chưa biết cách trình bày tóm tắt của một bài toán, viết lời giải còn lộn xộn, trình bày bài giải chưa rõ ràng và chưa khoa học. Chính vì lẽ đó, các em thực sự khó khăn khi làm một bài toán có lời văn. Nguyên nhân dẫn đến các tình trạng này là: Về phía giáo viên Những năm vừa qua, phong trào đổi mới phương pháp dạy học thì một số không ít giáo viên có tâm huyết với nghề, có trình độ chuyên môn vững vàng cộng với sự hiểu biết sâu rộng về các môn học đã thực hiện được nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần của xu thế mới.Hiện tượng này là do:Việc hướng dẫn giải toán của giáo viên chưa theo quy trình hợp lý, giáo viên còn ngại sử dụng đồ dùng minh họa. Mặt khác, đội ngũ giáo viên của trường đã lớn tuổi, việc đào tạo bồi dưỡng giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục; cách dạy học vẫn còn lạc hậu. Chưa có khả năng phối kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy tích cực để giúp học sinh giải toán có hiệu quả. Các phương tiện, thiết bị dạy học trong giảng dạy chưa được giáo viên chú trọng sử dụng, do đó chưa phát huy được tính tích cực, tính ham học hỏi của học sinh. 2.2Về phía học sinh Một số em chưa có thói quen không đọc kĩ đề, chưa biết tóm tắt hay trình bày bài giải chưa rõ ràng và chưa khoa học. Khả năng tập trung của HS lớp 1 trong quá trình học cũng như trong giải toán có lời văn chưa cao. Chính vì lẽ đó, các em thực sự lúng túng khi làm một bài toán có lời văn. Mà hằng ngày đến lớp, học sinh tiếp thu kiến thức từ giáo viên thông qua các tiết dạy với phương pháp sử dụng chủ yếu là thầy giảng, trò nghe và ghi chép một cách thụ động chưa phát huy được tính tích cực, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức mới của các em. Ngoài ra, ở trường do thiếu đồ dùng trực quan nên hầu hết các giáo viên ở lớp 1 khi dạy dạng toán này đều cố gắng mô phỏng lại hình ảnh của bài toán bằng những hình ảnh vẽ đơn giản trên bảng, từ đó những học sinh có khả năng tiếp thu chậm sẽ không nắm được bài toán dẫn đến sự kém tập trung chú ý vào bài. 2.3Về phía phụ huynh học sinh Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi là một ngôi trường ở gần trung tâm xã Quảng Hiệp, đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình. Bên cạnh đó còn một số phụ huynh có điều kiện kinh tế còn khó khăn, chủ yếu sống bằng nghề buôn bán, hay làm thuê,chỗ ở không ổn định, trình độ thấp lại ít quan tâm đến việc học của con em mình ở nhà cũng như ở trường nên kết quả học tập chưa cao. Đặc biệt phụ huynh còn coi nhẹ kiến thức toán của lớp1. Chưa quan tâm đúng mức đến việc hình thành các phương pháp giải cho học sinh mà chỉ hướng dẫn một cách áp đặt, thậm chí còn giải giúp cho các em. Do vậy chất lượng học tập các bài toán dạng giải toán có lời văn ở lớp 1 chưa cao. Điều đó sẽ không đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống trong xã hội hiện đại. Thiết bị dạy học Học sinh lớp1là đối tượng ham hiểu biết, ưa hoạt động, giàu trí tưởng tượng cho nên cách dạy học phải gợi trí tò mò, tránh đơn điệu về hình thức hoạt động, phải gợi mở được vấn đề, cho nên cần chú ý đến đồ dùng trực quan. Đặc biệt là thiết bị dạy học. Trong quá trình dạy học, học sinh nhận thức nội dung bài học dưới sự tổ chức, dẫn dắt của giáo viên có sự hỗ trợ của thiết bị dạy học. Hơn nữa thiết bị dạy học còn đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kĩ năng, kĩ xảo. Mà trên thực tế, thiết bị dạy học còn thiếu, chưa đảm bảo cho cho mỗi giáo viên được sử dụng.Mặt khác, những đồ dùng như tranh ảnh để minh họa cho các bài toán giải có lời văn thì lại không có nên nó cũng đem đến ảnh hưởng phần lớn cho giáo viên khi giảng dạy kiến thức cho học sinh lĩnh hội tri thức tốt nhất. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp 3.1 Nắm vững chương trình toán lớp 1 Nội dung môn Toán lớp 1 gồm bốn tuyến kiến thức chính, đó là: số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn. 3.1.1 Số học Số học là mạch kiến thức bao gồm các kiến thức ban đầu về số và các phép tính ở dạng phép cộng và phép trừ. Học sinh lớp 1 được học các số đếm từ 0 đến 100. Nội dung dạy học các số ở lớp 1 được sắp xếp một cách hợp lí, đan xen, làm nổi rõ mạch số học và hỗ trợ các mạch kiến thức khác như đại lượng, yếu tố hình học và giải toán. Bên cạnh đó, học sinh sẽ bước đầu có được một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép cộng và phép trừ. Biết nêu cách thực hiện phép cộng, phép trừ; viết đúng quy định về”đặt tính”cộng hoặc trừ. Nội dung dạy học phép cộng và phép trừ trong Toán 1 được trình bày theo tư tưởng của toán học hiện đại, nhưng chưa sử dụng ngôn ngữ và kí hiệu của toán học hiện đại, mà sử dụng ngôn ngữ và vốn sống của học sinh, nên vừa đảm bảo tính khoa học vừa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. 3.1.2 Đại lượng và đo đại lượng Trong chương trình môn Toán ở lớp 1, học sinh chỉ được biết đến hai đại lượng độ dài và thời gian với mục tiêu được xác định cụ thể: Có biểu tượng về độ dài. Biết xăng-ti-mét là đơn vị để đo độ dài. Biết cách đo và viết số đo độ dài. Biết thực hiện các phép tính cộng và trừ với các số đo theo đơn vị cm. Biết mỗi tuần lễ có 7 ngày và tên gọi, thứ tự các ngày trong tuần. Biết xem lịch. Biết xem giờ đúng trên đồng hồ. Tập nhận biết mối liên hệ giữa các hoạt động trong sinh hoạt hằng ngày với thời điểm diễn ra chúng. 3.1.3 Yếu tố hình học Dạy các yếu tố hình học ở lớp 1 chỉ bước đầu giúp học sinh: Nhận biết được hình tròn, hình vuông, hình tam giác (dạng tổng thể). Nhận biết được về điểm, đoạn thẳng; điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình. Bước đầu hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành như: đo độ dài đoạn thẳng, vẽ đoạn thẳng có độ dài cho trước, xếp ghép hình đơn giản (theo mẫu). Bước đầu làm quen các thao tác lựa chọn, phân tích, tổng hợp hình. Phát triển trí tưởng tượng không gian qua quá trình học tập các yếu tố hình học. Nội dung yếu tố hình học có cấu trúc hợp lí, được sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác, phù hợp với sự phát triển theo từng giai đoạn học tập của học sinh. 3.1.4 Giải toán có lời văn Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức trong chương trình Toán lớp 1. Mục tiêu dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 nằm trong mục tiêu chung dạy học môn Toán lớp 1 đó là: Nhận biết thế nào là bài toán có lời văn. Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ, trong đó có bài toán về”thêm”,”bớt”một số đơn vị. Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt (phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói và viết). Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 1 đã bám sát trình độ chuẩn theo mục tiêu dạy học giải toán ở tiểu học và được cấu trúc hợp lí, sắp đặt xen kẽ để làm nổi rõ mạch kiến thức khác nhau. Nội dung dạy học giải toán có lời văn lớp 1 được sắp xếp thành hai giai đoạn với bốn mức độ: + Giai đoạn 1: Giai đoạn”chuẩn bị học giải toán có lời văn”. Giai đoạn này học trong học kì 1– lớp 1, học sinh làm quen với các”tình huống”của bài toán được diễn tả qua các tranh vẽ với bốn mức độ. Mức độ 1: Bắt đầu từ tuần 7 đến tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy vềphép cộng,phép trừ trong phạm vi 10đều có các dạng bài tập thuộc dạng”Nhìn tranh vẽ để viết phép tính thích hợp”. Ởđây học sinh làm quen với việc: Quan sát tranh vẽ,tập nêu bài toán bằng lời nêu câu trả lờivà điền phép tính thích hợp(với tình huống trong tranh) Mức độ 2:Tuần 16 học sinh được làm quenvới việc đọc tóm tắt rồi nêu đề toánbằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điềnsố cùng phép tính thích hợpvào dãy 5 ô trốngđể có phép tính đúngmà không nhìn vào tranh vẽ nữa. + Giai đoạn 2: giai đoạn”chính thức học giải toán có lời văn”. Giai đoạn này được học trong học kì 2 – lớp 1. Ở giai đoạn này, học sinh được biết thế nào là một bài toán có lời văn. Vì thế, có thể coi giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Ở giai đoạn này cũng có hai mức độ cao hơn, đó là: Mức độ 3:Trước khi chính thức học“giải toán có lời văn”học sinhđược học bài nói vềcấu tạo của một bài toáncó lời văn(gồm hai phần chính lànhững cái đã cho(đã biết)và những cái phải tìm(chưa biết).Vì khó có thể giải thích cho học sinh”Bài toán là gì?”nên mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho các em hai bộ phận của một bài toán: Những cái đã cho (dữ kiện) và cái phải tìm (câu hỏi). Mức độ 4: Mức độ này đòi hỏi cao hơn là các em phải biết tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn.Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5: Câu lời giải; Phép tính giải; Đáp số. Thường thì các bài toán có lời văn ở lớp 1 gắn liền với tình huống trong đời sống thực tế của học sinh nên dạy học toán giải toán còn giúp các em giải quyết vấn đề bài trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ bài toán:Nhà An có năm con gà, mẹ mua thêm 4 con gà.Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà? Hướng dẫn quy trình giải bài toán có lời văn 3.2.1 Hướng dẫn học sinh đặt đề toán Trong chương trình Toán lớp 1, từ tuần 23 học sinh mới chính thức học cách giải bài toán có lời văn. Xong ngay từ tuần 7 đến tuần 16 (bắt đầu từ bài phép cộng trong phạm vi3) thì hầu hết các tiết dạy về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10 đều có các bài toán dạng”nhìn tranh để viết phép tính thích hợp”. Để giúp học sinh làm quen và tạo tiền đề để giải toán có lời văn được tốt thì tôi đã tập cho học sinh làm quen với cách thức giải toán như sau: Xem tranh vẽ, nêu bài toán bằng lời, nêu câu trả lời, điền phép tính thích hợp. Đồng thời, dựa vào việc quan sát tranh thực tế đó kết hợp với những câu hỏi gợi ý sẽgiúp cho các em làm quen với một số từ khóa”đi vào, thêm, cho, nhận, và, đến, có tất cả”hay”đi ra, bớt, bay đi, lấy ra, ăn, bỏ đi”.Từ thực tế đó mà tôi hướng dẫn cách tìm ra phép tính ứng với các từ khóa có trong bài toán như: Thêm là cộng, bớt là trừ, Ví dụ 1:Bài: Phép cộng trong phạm vi 4 - Trang 47 sách giáo khoa. Bài 4: Viết phép tính thích hợp: - Tiến hành cho học sinh quan sát hình ảnh trên cành có 3 con chim đang đậu. Tiếp đến là có 1 con chim nữa bay đến. Kết hợp với câu hỏi gợi mở để học sinh trả lời từ đó học sinh sẽ nêu được bằng lờibài toán tương ứng:”Có 3 con chim, sau đó 1 con chim nữa bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim ?”. Cũng chính từ bài toánvừa nêu mà các em sẽ viết đúng phép tính phù hợp. 3 + 1 = 4 Ví dụ 2:Bài:Luyện tập chung- Trang 89 sách giáo khoa. Bài 5: Viết phép tính thích hợp: Có: 5 quả b) Có:7 viên bi Thêm : 3 quả Bớt: 3 viên bi Có tất cả : quả? Còn: viên bi? Đây là một dạng toán cao hơn, không còn phải là nhìn hình ảnh để viết phép tính thích hợp nữa mà là viết đúng phép tính thích hợp theo những dữ kiện tóm tắt của một bài toán có lời văn. Để giúp học sinh thực hiện viết phép tính đúng như yêu cầu thì điều đầu tiên giáo viên cần cho học sinh của mình đọc phần tóm tắt. Cũng từ phần tóm tắt đã có sẵn mà hình thành nên một bài toán có lời văn. Chính việc hình thành này đã yêu cầu học sinh đặt ra một bài toán có lời văn. Như thế bài toán của câu 5a là:”Có 5 quả, thêm 3 quả nữa. Hỏi có tất cả bao nhiêu quả”và bài toán của câu 5b là:”Có 7 viên bi, sau đó bớt đi 3 viên bi. Hỏi còn lại mấy viên bi?” Sau khi đã hình thành xong đề toán thì giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh nêu phép tính đúng và viết phép tính đó vào các ô trống phía dưới. 5 + 3 = 8 7 - 3 = 4 Ví dụ 3:Bài:Bài toán có lời văn - Trang 116 sách giáo khoa. Bài 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán: Bài toán: Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. Hỏi? -Để học sinh nêu được câu hỏi của bài toán dễ dàng, tôi sẽ tiến hành cho học sinh quan sát: Có 1 con mẹ và rồi tiếp đến là 7 con gà con. Đồng thời qua đó hướng dẫn các học sinh phân tích đề toán theo hình vẽ vừa xem. -Dựa vào phần cho đã biết, tôi sẽ cho học sinh tập nêu câu hỏi của bài toán”Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?”. Sau khi các em nêu bằng lời câu hỏi cũng như đề bài toán xong, thì sẽ tiến hành cho các em tự viết tiếp các dữ kiện còn thiếu vào chỗ chấm ở phần hỏi của bài toán. -Yêu cầu học sinh đọc lại đề bài toán hoàn chỉnh để nắm vững đề toán. 3.2.2 Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu đề toán Muốn cho học sinh hiểu và giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức như sau: - Cho các em đọc kĩ đề toán, hiểu một số từ khóa quan trọng và kết hợp với sử dụng hình ảnh để các em hình dung được nội dung của đề toán. - Hướng dẫn tìm hiểu bằng các câu hỏi gợi mở: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? - Gạch chân (chuyển màu chữ) và giải thích một số từ khóa quan trong của bài toán. Ví dụ:Bài: Giải toán có lời văn – Trang 117 sách giáo khoa. Bài 1:An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có tất cả mấy quả bóng? Giáo viên sẽ hướng dẫn như - Cho HS đọc đề bài toán kết hợp với quan sát tranh. - Hướng dẫn học sinh phân tích đề toán dựa trên câu hỏi: + Bài toán cho biết gì?(An có 4 qủa bóng, Bình có 3 quả bóng) + Bài toán hỏi gì? (Cả hai bạn có tất cả mấy quả bóng) Gạch chân những dữ kiện quan trọng của đề toán: Bài 1:An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng.Hỏi cả hai bạn có tất cảmấy quả bóng? Qua bài toán này sẽ giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của bài toán có lời văn. 3.2.3 Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán Để giúp học sinh tóm tắt được một đề toán, Tôi hướng dẫn cách tóm tắt bằng cách đàm thoại (Bài cho biết gì? bài toán hỏi gì?). Dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại bài toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh ngầm phân tích đề toán. Tùytheo dạng toán cụ thể mà có cách tóm tắt phùhợp: *Tóm tắt bằng lời. Ví dụ:Bài: Giải toán có lời văn- Trang 117 sách giáo khoa. Bài 1:Ancó 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có tất cả mấy quả bóng? -Cho học sinh đọc đề bài toán kết hợp với quan sát tranh. -Đặt câu hỏi để học sinh trả lời rồi tôi viết các cụm từ khóa quan trọng mà học sinh vừa trả lời được thành các câu tóm tắt của bài toán. + Bài toán cho biết gì? Tóm tắt Ancó 4 quả bóng => An có : 4 quả bóng Bình có 3 quả bóng=> Bình có: 3 quả bóng + Bài toán hỏi gì? Cả hai bạn có tất cả mấy quả bóng?=> Cả hai bạn có:...quả bóng? -Dựa vào tóm tắt cho học sinh sẽ đọc lại đề bài toán. *Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. Ví dụ:Bài:Luyện tập – Trang 151 sách giáo khoa. ? cm 2 cm Bài 3: Một sợi dây dài 13 cm, đã cắt đi 2cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu xăng- ti – mét? 13 cm 3.2.4 Hướng dẫn học sinh tìm cách giải Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán, tôi sẽ tiến hành hướng dẫn tìm cách giải: - Đối với mức độ đơn giản là học sinh nhìn vào tranh để viết phép tính thích hợp thì tôi chỉ cần cho học sinh xác định sự vật trong tranh là thêm vào hay bớt đi. Từ đó các em sẽ nêu được phép tính đúng cũng như nói được kết quả đúng. - Đối với những bài toán ở mức độ cao hơn là đọc, tìm hiểu bài toán rồi mới trình bày bài giải thì tôi sẽ cho học sinh tiến hành như sau: + Xác định câu lời giải (Bởi cái khó nhất của học sinh lớp 1 là đặt lời giải): Tôi yêu cầu học sinh xác định câu hỏi của đề toán để viết câu lời giải dựa vào câu trả lời hay tôi hướng dẫn học sinh cách bỏ tiếng (Hỏi), thay tiếng (mấy hay bao nhiêu) bằng tiếng”số”và lấy lại những cụm từ quan trọng trong câu hỏi và thêm chữ”là”cùng dấu hai chấm. + Xác định phép tính đúng: Tôi hướng dẫn học sinh xác định bằng câu hỏi: Muốn biết cả hai có tất cả bao nhiêu ta làm tính gì?(tính cộng) và Muốn biết còn lại ta làm tính gì?(tính trừ). Bên cạnh đó, tôi còn lưu ý cho học sinh là bài toán hỏi cái gì thì ghi tên đơn vị cái ấy. Ví dụ:Bài: Giải toán có lời văn – Trang 117 sách giáo khoa. Bài 1: An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có tất cả mấy quảbóng? Dựa vào câu hỏi ở ví dụ tôi hướng dẫn học sinh viết lời giải: + Dựa vào câu hỏi của bài toán: Cả hai bạn có mấy quả bóng?(Cả hai bạn có số quả bóng là:) + Thay tiếng”mấy”bằng tiếng”Số”, viết lại cụm từ”quả bóng”bên cạnh tiếng”Số”, rồi bỏ tiếng”Hỏi”và tiếp tục viết lại cụm từ”cả hai bạn có tất cả”bên cạnh từ”quả bóng”rồi thêm tiếng”là”cùng với dấu hai chấm. Sau khi hướng dẫn như vậy ta sẽ có một câu lời giải trọn vẹn”Số quả bóng cả hai bạn có tất cả là”. Riêng với phép tính thì tôi sẽ hỏi: Muốn biết cả hai bạn có bao nhiêu quả bóng ta làm phép tính gì? (Tính cộng); mấy cộng với mấy?(4 + 3 = 7); đơn vị của bài toán là gì?(quảbóng). Đã có phép tính và đơn vị đúng,tôi lưu ý học sinh phải đóng ngoặc đơn đơn vị của bài toán; còn riêng đơn vị ở phần đáp số thì ta không đóng ngoặc đơn. Như vậy với mức độ đòi hỏi cao hơn này là các em phải biết tư duy tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tế. 3.2.5. Hướng dẫn học sinh trình bày bài toán Việc trình bày bài giải đối với học sinh lớp 1 là còn bỡ ngỡ nên tôi sẽ hướng dẫn cho học sinh cách thực hiện như sau: Ghi nhớ trình tự của một bài giải gồm 4 dòng quan trọng: + Dòng 1: viết câu bài giải. + Dòng 2: Viết câu lời giải. +Dòng 3: Viết phép tính đúng. +Dòng 4: Viết đáp số. Quy định về cách ghi trình tự của bài giải như sau: + Câu”Bài giải”được viết lùi từ lề vào 5 ô li vở. Phía dưới có gạch chân. + Câu lời giải được viết phía dưới và lùi từ lề vào 3 ô li vở. + Phép tính đúng được ghi lùi vào 1 ô so với dòng ghi câu lời giải. Đơn vị của bài được đặt trong ngoặc đơn. + Đáp số được ghi lùi vào 1 ô so với với phép tính đúng. Đơn vị không đặt trong ngoặc đơn. Từ đáp số sẽ được gạch chân. Ví dụ:Bài: Giải toán có lời văn – Trang 117 sách giáo khoa. Bài1:An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có tất cả mấy quảbóng? Bài giải: Số quả bóng cả hai bạn có tất cả là: 4 + 3 = 7 (quả bóng) Đáp số: 7 quả bóng. 3.2.6 Hướng dẫn học sinh kiểm tra lại bài làm Sau khi học sinh trình bày xong bài giải, tôi xây dựng cho các em thói quen phải kiểm tra lại bài làm xem đã đúng về lời giải, phép tính hay đáp số chưa. 3.3 Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở tiểu học 3.3.1 Dạy học theo nhóm Dạy học theo nhóm là hình thức giảng dạy đặt học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp. Trong nhóm, học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm việc hợp tác. Hoạt động dạy học theo nhóm luôn là hoạt động mà trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động hợp tác với nhau trong các nhóm nhằm đạt mục tiêu học tập. Việc tổ chức học tập theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các kĩ năng như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trao đổi thông tin, kĩ năng tìm kiếm thông tin, kĩ năng làm việc trong môi trường hợp tác, Ví dụ:Bài 3/ 85 : Viết phép tính thích hợp: 7 + 3 = 10 Với ví dụ này, tôi sẽ cho học sinh quan sát tranh, tìm hiểu đề rồi tôi sẽ yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm để viết phép tính đúng. Qua thảo luận trong nhóm thì các em sẽ đưa ra phép tính phù hợp. 3.3.2 Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề Đặc trưng cơ bản của dạy học giải quyết vấn đề là học sinh được đặt vào”tình huống có vấn đề”. Tình huống có vấn đề gợi ra cho học sinh những khó khăn mà các em thấy cần và phải vượt qua, nhưng không thể ngay lập tức, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ bằng chính sự nỗ lực về trí tuệ của bản thân. Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về giải toán trong quá trình giảng dạy thì giáo viên áp dụng phương pháp giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy họcphát hiện và giải quyết vấn đề là trong đó giáo viên tạo ra những tình huống sư phạm có chứa vấn đề; rồi tổ chức, hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề; tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề; thông qua đó học sinh chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập. Như vậy,giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính, học sinh đặt lời giải. Cho hình vẽ để học sinh đặt bài toán và thực hành giải bài toán. Ví dụ:Bài 1/117: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải
Tài liệu đính kèm: