“ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀO BÀI GIẢNG NGỮ VĂN”
Văn bản
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
Phạm Tiến Duật
Bước 1: Soạn ra giấy ( gồm bước 1, 2, 3)
Đây là bước đầu tiên của bất kì người GV nào khi soạn giảng, bởi lẽ nó giúp người GV định hướng được nội dung, yêu cầu, trọng tâm kiến thức bài dạy để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi từ phát hiện phân tích giảng bình khai thác trình tự nôịi dung kiến thức bài dạy.
* Giúp HS hiểu được:
- Cảm nhận được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính, cùng hình ảnh những chiến sĩ lái xe TS hiên ngang, dũng cảm sôi nổi trong bài thơ.
- Thấy được những nét riêng của giọng điệu ngôn ngữ bài thơ.
- Rèn kĩ năng phân tích hình ảnh ngôn ngữ bài thơ.
PHẦN MỞ ĐẦU “LÍ DO CẦN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO GIỜ DẠY NGỮ VĂN” Việt Nam đang bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá với những thách thức mới của thời đại cong nghiệp, tri thức gắn liền với quá trình toàn cầu và hội nhập quốc tế. Đắc biệt khi Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO với 4 mục tiêu giáo dục là: “ Học để biết, để làm, để sống chung và để khẳng định .” Trong thời đại mới đòi hỏi con người phải có cách nhìn mới , cách nghĩ mới và những kiến thức, kĩ năng mới của thời đại. Nghĩa là con người phải có khả năng tư duy độc lập, có phương pháp tư duy hệ thống, có năng lực sáng tạo và tinh thần đổi mới để thích ứng với sư thay đổi thường xuyên, đa dạng, biến động bất ngờ của môi trường hợp tác văn hoá của một thế giới toàn cầu hoá. Nền giáo dục mới là một nền giáo dục hiện đại, sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông, mạng máy tính và internet để tổ chức và triển khai quá trình dạy và học với những phương pháp và hình thức linh hoạt nhằm nâng cao nền tảng văn hoá và tinh thần chung của xã hội. Mọi người có thể biết cách tự học, học liên tục để có một nền giáo dục mở, liên thông, có khả năng hội nhập với nền giáo dục chung của thế giới. Trước bối cảnh xã hội ấy, chúng ta là những người thầy không thể là người ngoài cuộc. Là giáo viên đã từng tâm huyết với nghề dạy học ai cũng mong muốn mình thành công trong mỗi giờ lên lớp. Để đạt được thành công đó ngoài khả năng sư phạm, kiến thức của mỗi giáo viên, cần có sự tham gia đắc lực của đồ dùng dạy học: Đó là những cuốn sách giáo khoa, sách tham khảo, tranh ảnh, chân dung tác giả hoặc tác phẩm, tranh vẽ phóng to từ sách giáo khoa, máy ghi âm, băng đĩa ghi hình, sẽ làm cho giờ học ngữ văn thêm sinh động. Những năm gần đây, khi mà xã hội đòi hỏi ngày càng cao, công nghệ thông tin đang ứng dụng ngày càng nhiều vào các mặt của đời sống xã hội và đổi mời phương pháp dạy học đang trở thành vấn đề quan tâm của các nhà giáo dục thì ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào giáo dục đã phát huy được tính ưu việt nổi trội so với các phương tiện khác. Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Ngữ Văn ở Huyện Hoài Đức ngày càng được nhiều trường áp dụng. Trường THCS An Thượng chúng tôi còn rất nhiều bỡ ngỡ trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giờ giảng dạy Ngữ Văn bởi vốn ngôn ngữ tiếng Anh có nhiều hạn chế, khả năng sử dụng thành thạo máy tính còn ítNhưng thấy được hiệu quả của việc sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Ngữ Văn làm cho giờ dạy sinh động hơn, học sinh hăng say hơn và khác phục được xu thế hiện nay học sinh thích học các môn khoa học tự nhiên hơn học khoa học xã hội. Từ suy nghĩ như vậy, mặc dù bản thân chưa có nhiều kiến thức về tin học và các phương tiện hiện đại nhưng chúng tôi cũng mạnh dạn thử sức trong lĩnh vực mới mẻ này. Đó là lí do thôi thúc tôi chọn đề tài này. PHẦN THỨ HAI: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO GIỜ DẠY NGỮ VĂN I. Cơ sở áp dụng. 1. Thực trạng của việc sử dụng thiết bị dạy học ở môn Ngữ Văn. Từ trước đến ny môn Ngữ Văn là một trong những môn hcj rất ít được sử dụng phương tiện dạy học. Đồ dùng dạy học đối với phần lớn giáo viên chỉ là cuốn sách giáo khoa, tập giáo án, viên phấn và một vài tranh ảnh cũng hết sức đơn sơ, nghèo nàn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưmg theo toi chủ yếu do hai nguyên nhân sau: Một (Nguyên nhân khách quan ): Môn Ngữ Văn là môn học ngôn từ, chủ yếu là sử dụng ngôn từ, dùng nhiều trí tưởng tượng, liên tưởng để hiểu và cảm nhận hình tượng. Vì thế mà một số người cho rằng không nên, không cần thiết phải sử dụng giáo cụ trực quan hay thiết bị dạy học gì. Cũng xuất phát từ nhận thức ấy mà từ trước đến nay việc đầu tư cho thiết bị dạy học ở môn Ngữ Văn dường như khống có. Hoặc nếu có thì cũng chỉ là vài bức tranh dân gian, mấy bức chân dung các nhà văn, nhà thơ kèm theo bản chụp bìa các tác phẩm của họ. Hai (Nguyên nhân chủ quan ): Một số giáo viên chưa nhận thức hết được vai trò và tác dụng của đồ dùng dạy học, chưa đầu tư nhiều về phương hướng và cách thức sử dụng phương tiện một cách hiệu quả, chưa chịu khó sưu tầm và tự tậócc thiết bị dạy học cho phù hợp. Gần đây việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông đã được triển khai đồng bộ (từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện kiểm tra, đánh giá). Vì vậy, việc sử dụng thiết bị dạy học trong môn Ngữ Văn đã có nhiều chuyển biến tích cực. 2. Công nghệ thông tin và dạy học Ngữ Văn. a- Ưu điểm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ Văn có những ưu điểm rõ rệt. Bởi lẽ, “văn học là nhân học” , tức là học về con người, học làm người. Môn Ngữ Văn không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức về văn chương mà còn mang một sứ mạng cao cả là bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách cho học sinh. Vậy mà không ít học sinh ngày nay lại thờ ơ với môn Văn, thậm chí Ngữ Văn còn trở thành môn học chán ngán, đáng sợ. Tại sao lại như vậy? Theo tôi có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về người lớn. Lâu nay chúng ta quen đi lối mòn là dạy cho học sinh “học để thi” chứ không phải “học để biết,để thực hành vận dụng vào cuộc sống”. Do đó, giờ Văn trở nên khô cứng và áp đặt. Hơn nữa, chính người thầy đôi lúc cũng không còn hứng thú với những bài giảng đã được đóng khung chi tiết đến từng phút một, lên lớp mà luôn lo âu, sợ cháy giáo án, không kịp chương trình, rồi thì kết quả thi không đạt chỉ tiêu thi đua Chính những lo âu ấy đã triệt tiêu năng lực sáng tạo của người thầy. Việc thay dổi quan điểm dạy học không chạy theo thành tích, cùng với những đòi hỏi bức thiết phải đổi mới của xã hội đã dẫn đến hiệu quả tất yếu là phải đổi mới phương pháp dạy học. Theo tôi, người dạy Vănphải thay đổi phương pháp cũng giống như người đầu bếp phải thay đổi món ăn sao cho phù hợp với khẩu vị để kích thích những học trò “vừa biếng ăn, vừa suy dinh dưỡng” khiến chúng thưởng thức văn chương một cách vui vẻ và hào hứng. Cùng với công nghệ thông tin, người thầy có thể tạo ra những món ăn hấp dẫn và bổ dưỡng, giờ dạy không còn là bảng đen, phấn trắng mà các phương tiện dạy học hiện đại như máy tính, máy chiếu và một số phần mềm tiện ích sẽ giúp người thầy làm được điều đó, khiến cho học sinh yêu thích và đến với môn Văn mà không cần ép buộc chúng “học Văn”. Phương pháp dạy học mới và sự trợ giúp của công nghệ thông tin đã mang đến cho giờ dạy học Văn một không khí mới. Thứ nhất: Công nghệ thông tin góp phần nâng cao tiềm lực của giáo viên, cung cấp cho họ những phương tiện hiện đại. Từ các phương tiệnđó giáo viên khai thác thông tin, cập nhập và trao đổi thông tin, bổ sung và tự làm giàu vốn tri thức của mình từ một số phương tiện chủ yếu như: mạng internet, các loại từ điển điện tử, sách điện tử, thư điện tử Hiện nay chúng ta đã có rất nhiều tài nguyên dạy và học của các địa phương, của Bộ giáo dục – đào tạo. Trên những trang web này dành cho tất cả giáo viên. Giáo viên có thể giới thiệu đè cương hoặc bài giảng của mình, trình bày những ý tưởng và cách thức tổ chức bài học của mình để cùng trao đổi với đồng nghiệp. Đối với giáo viên, việc soạn bài với những ứng dụng công nghệ thông tin cũng mang lại những hiệu quả khác biệt. Giáo viên thường xuyên cạp nhạp kiến thức về chuyên môn, tin họcđể tự nâng cao tay nghề. Đặc biệt khi bắt tay vào soạn một bài dạy có vận dụng công nghệ thông tin người giáo viên thực sự bị cuốn hút và càng làm nhiều thì càng thích thú, đồng thời nảy sin những ý tưởng mới. Từ đó lòng yêu nghề và sự sáng tạo cũng được bồi đắp thêm. Và điều quan trọng nhất là học sinh không còn sợ và ghét học môn Văn nữa. Đây chính là điều kiện cần thiết để văn chương thực thi sứ mạng giáo dục nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn cho các em. Thật vậy, nếu học sinh không thích học Văn thì làm sao các em lĩnh hội được những bài học về cuộc sống, làm người đuợc ẩn chứa trong tác phhẩm văn chương. Thứ hai: Công nghệ thông tin góp phần đổi mới cách dạy, cách học, đổi mới phương pháo dạy học. Để làm được điều đó, cần chú ý đến phương tiện dạy học. Công nghệ thông tin là một trong những phương tiện quan trọng giúp cho việc đổi mới phương pháp bằng việc soạn thảo và ứng dụng các phần mềm dạy học. Bài học sẽ trở nên sinh động, thu hút sự chú ý của học sinh do có nhiều hình ảnh minh hoạ sống động, cụ thể bằng các hìmh ảnh, phông nền, phông chữ, biểu bảng giúp học sinh hệ thống, khái quát bài học cùng với những lời giảng bình liên hệ khắc sâu kiến thức của giáo viên. Giáo viên không còn độc diễn mà phối hợp nhịp nhàng cùng hệ thống hình ảnh, câu hỏi, chất liệu trên máy để giảng, phân tích, bình giảng khiến giờ học trở nên sinh động, khả năng tiếp thu kến thức cao hơn trước. Phân biệt giáo án điện tử và bài giảng điện tử. * Giáo án điện tử: Theo cách hiểu của chúng tôi, giáo án điện tử là giáo án được soạn bằng máy tính, có thể in ra thay thế giáo án viết tay. Trong giáo án điện tử có chứa nội dung trình chiếu, mô phỏng. *Bài giảng điện tử:Là những nội dung kiến thức, bài giảng của tiết dạy GV đưa vào máy tính,được lưu trữ ở dạng điện tử. Nếu coi GAĐT là một kịch bản thì bài giảng là vở kịch đã được công diễn. Như vậybài giảng là việc GV thực hiện GA trên lớp cùng với HS. Tuy nhiên bài giảng điện tử thường đi cùng với việc phát huy những thế mạnh ưu điểm của công nghệ thông tin trong việc thực hiện GA trên lớp của GV. 3- Quy trình xây dựng bài giảng Ngữ Văn trên máy tính. Trước hết cần lựa chọn chủ đề thích hợp.Không phải chủ đề nào cũng cần tới bài giảng điện tử.Chủ đề thích hợp là chủ đề có thể dùng bài giảng điện tử để hỗ trợ thích hợp và sáng tạo ra hiệu quả day học tốt hơn so với việc sử dụng thiết bị day học truyền thống. Tôi xây dựng bài giảng theo trình tự sau: 1- Tìm hiểu nội dung kiến thức bài dạy 2- Soạn bài ra giấy những nội dung kiến thức đó, xây dựng kich bản để thiết kế trên máy 3- Thu thập tài liệu, hình ảnh minh hoạ để mở rộng kiến thức đưa vào kịch bản. 4- Thể hiện kịch bản trên máy tính. 5- Điều chỉnh và kiểm tra. C - NỘI DUNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN “ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO BÀI GIẢNG NGỮ VĂN” Văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm Tiến Duật Bước 1: Soạn ra giấy ( gồm bước 1, 2, 3) Đây là bước đầu tiên của bất kì người GV nào khi soạn giảng, bởi lẽ nó giúp người GV định hướng được nội dung, yêu cầu, trọng tâm kiến thức bài dạy để từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi từ phát hiện à phân tích à giảng à bình khai thác trình tự nôịi dung kiến thức bài dạy. * Giúp HS hiểu được: - Cảm nhận được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính, cùng hình ảnh những chiến sĩ lái xe TS hiên ngang, dũng cảm sôi nổi trong bài thơ. - Thấy được những nét riêng của giọng điệu ngôn ngữ bài thơ. - Rèn kĩ năng phân tích hình ảnh ngôn ngữ bài thơ. * Chuẩn bị của GV + HS GV: Sưu tầm tranh ảnh tác giả, tác phẩm và một số hình ảnh trong chiến tranh liên quan đến ND bài thơ, soạn ra giấy, vào máy ND trình chiếu HS: Soạn bài chuẩn bị theo yêu cầu ND tiết học. * Lên lớp 1. Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra bài cũ: Tình đồng chí, đồng đội được thể hiện như thế nào trong bài thơ “ Đồng chí” của Chính Hữu 3. Bài mới Giới thiệu bài: GV đẫn dắt vào bài thông qua hình ảnh minh hoạ trên màn hình. Ngữ văn Bài 10 : Tiết 47 Văn bản: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) I/ Đọc, tỡm hiểu chung 1/ Tỡm hiểu chỳ thớch. a) Tỏc giả: Phạm Tiến Duật, sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941. Quờ quỏn : Phỳ Thọ Mất ngày 5 tháng 12 năm 2007 Ông là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ Phong cách thơ: Giọng điệu sôi nổi trẻ trung, tinh nghịch phản ánh hiện thực cuộc sống nơi chiến trường Phong cách thơ: Giọng điệu sôi nổi trẻ trung, tinh nghịch phản ánh hiện thực cuộc sống nơi chiến trường b) Tỏc phẩm: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” viết năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa” c) Giải nghĩa từ: 2/ Đọc, tỡm hiểu chung Thể thơ: Tự do Nhan đề: khác lạ, độc đáo cho thấy cách khai thác hiện thực đầy chất thơ của tác giả II/ Phân tích văn bản 1/ Hỡnh ảnh những chiếc xe khụng kớnh “ Khụng cú kớnh khụng phải vỡ xe khụng cú kớnh Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi .. “Không có kính, rồi xe không có đèn Khụng cú mui xe, thùng xe có xước” → Xe không kính là do hiện thực chiến trường ác liệt nguy hiểm gây nên 2/ Hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn + Tư thế: “Ung dung buồng lỏi ta ngồi Nhỡn đất, nhỡn trời, nhỡn thẳng Nhỡn thấy giú vào xoa mắt đắng Nhỡn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như lùa vào buồng lái.” → Tư thế hiên ngang, bình tĩnh, tự tin, chủ động đối mặt với khó khăn gian khổ, tâm hồn lóng mạn, tỡnh yờu và sự gắn bú với thiờn nhiờn, với con đường ra trận của người chiến sĩ. + Thái độ tinh thần: Khụng cú kớnh, ừ thỡ cú bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa phỡ phốo chõm điếu thuốc Nhỡn nhau mặt lấm cười ha ha Khụng cú kớnh, ừ thỡ ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi Giọng thơ ngang tàng, lặp cấu trúc, câu phủ định → Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường nguy hiểm với tinh thần lạc quan yêu đời vượt lên gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ của người lính. + Tỡnh cảm: “Những chiếc xe từ trong bom rơi Đó về đây họp thành tiểu đội” Họ là một đại gia đỡnh lớn gắn kết với nhau qua bom đạn chiến tranh Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kớnh vỡ rồi Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đỡnh đấy Vừng mắc chụng chờnh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm → Tỡnh đồng chí, đồng đội đó trở thành thiờng liờng, mỏu thịt. Họ là những người lính trẻ trung, sôi nổi, lạc quan vượt lên trên mọi gian lao của cuộc chiến ác liệt Điệp từ “Lại đi”: Mệnh lệnh thôi thúc các anh lên đường + Tinh thần yêu nước: Vật chất > < Tinh thần Không có kính, không đèn, không mui xe, thùng xe xước Hiện thực tàn phỏ khốc liệt của chiến tranh Một trái tim yêu nước => Hoỏn dụ Khát vọng giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của người lính. → Vẻ đẹp của lũng trung thành với lớ tưởng cách mạng, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở người lính + Phẩm chất đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe: - Tư thế hiên ngang. - Tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm. - Tỡnh cảm đồng chí đồng đội gắn bó, thiêng liêng. - Trái tim yêu nước nồng nhiệt, ý chí khát vọng giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Sài Gòn trong ngày giải phóng Lễ ăn mừng chiến thắng tại Sài Gòn III/ Tổng kết: Ghi nhớ ( SGK- Trang 133) Bức ảnh cuối cựng của nhà thơ chụp trước lúc vào viện IV. Luyện tập: Bài tập 1: Chọn đỏp ỏn đỳng nhất: Hai bài thơ: - Đồng chí của Chớnh Hữu. - Tiểu đội xe không kính. Giống nhau ở điểm nào ? Cựng viết về đề tài người lớnh. Cựng viết theo thể thơ tự do. Cựng núi lờn sự hy sinh của người lớnh. Cả A và B. Bài tập 2: So sánh vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong hai bài thơ: “ Đồng chí ” của Chính Hữu. “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” của Phạm Tiến Duật. V - Củng cố - Dặn dũ: - Học thuộc lũng bài thơ. - Chuẩn bị bài tiếp theo. D - BÀI HỌC KINH NGHIỆM Mặc dù không thể phủ nhận tính năng ưu việt, sự hiện đại và lợi ích nổi trội của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy Ngữ Văn, xong người giáo viên cần phải chú ý 1 số điểm sau: Hướng dẫn cụ thể cho HS cách chuẩn bị tư liệu, soạn bài. Nắm vững trình độ HS để đưa ra các câu hỏi và bài tập phù hợp, hướng dẫn thảo thuận kết hợp với ND trên máy, lời giảng , bình của GV để HS ghi bài chủ động, sáng tạo. Khâu soạn bài của GV giảng đặc biệt chú ý , chuẩn bị chu đáo lường trước những tình huống khó. Đối với các câu hỏi thảo luận, bài tập sáng tạo,GV phải chuẩn bị kiến thức để bình sâu chi tiết đặc sắc, trọng tâm. Việc ứng dụng CNTT vào dạy Ngữ Văn gây hứng thú cho HS TB, yếu. Với những câu hỏi thảo luận khó, các em còn lúng túng, rủtè, hạn chế tham gia thảo luận, GV cần có cách gợi mở, động viên để các em hứng thú tham gia hoạt động. Để SD máy thành thạo trong quá trình giảng dạy GV cần phải tập luyện các thao tác trên máy, dự kiến các tình huống và cách xử lí. Tóm lại GV ứng dụng CNTT vào giảng dạy NV là rất cần thiết và hữu ích. Nhưng việc SD như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất trong giờ dạy là cả 1 vấn đề lớn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan, chủ quan. Trong đó quan trọng nhất là trình độ kiến thức, khả năng linh hoạt sáng tạo của người thầy. III. KẾT LUẬN * Những kiến nghị - đề nghị sau quá trình thực hiện đề tài: Đề nghị với các cấp lãnh đạo tăng cường đầu tư các trang thiết bịdạy học đặc biệt đối với bộ môn NV để người GV có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu đổi mới của quá trình dạy học. Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ngữ văn từ bước tìm hiểu bài dạy đến thu thập tài liệu bổ sung kiến thức xây dựng kịch bản cho việc thiết kế bài giảng trên máy vi tính, thể hiện kịch bản và điều chỉnh kiểm tra mà tôi và đồng nghiệp đã vận dụng quả là một nỗ lực rất lớn. Trong những năm đầu đổi mới chương trình thay SGK, vốn kinh nghiệm tích luỹ còn nhiều hạn chế, hơn nữa đây là 1 vấn đề hết sức mới mẻ, đang trong thời kì thử nghiệm, nên mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng nhưng không tránh khỏi những hạn chế nhất định, mong nhận được sự đóng góp của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để bản thu hoạch thêm hoàn thiện. Tôi xin trân thành cảm ơn!
Tài liệu đính kèm: