Trước hết là phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Thật vậy, cách dạy học ngữ văn từ trước tới nay có mấy lệch lạc như: Đối với bài học tác phẩm văn học thì chú trọng cái gọi là “giảng văn”. Bao nhiêu sách giáo khoa trước nay đều gọi đó là môn “Văn học trích giảng”, “Văn học giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân tích tác phẩm văn học”. Dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”, “bình”, “luận”, “phân tích”. Giáo án soạn ra là để cho giáo viên “giảng”, biểu diễn trên lớp. Giáo viên nào tham giảng thì thường “cháy” giáo án. Quan niệm Giảng văn như thế có phần sai tận gốc. Một là, văn học sáng tác ra cho người đọc đọc, do đó môn học tác phẩm văn học phải là môn dạy học viên đọc văn, giúp học viên hình thành kĩ năng đọc văn, trưởng thành thành người đọc có văn hoá, chứ không phải là người biết thưởng thức việc giảng bài của thầy. Chính vì vậy sai lầm thứ hai là môn học văn hiện nay thiếu khái niệm khoa học về đọc văn. Khái niệm “đọc” chỉ được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà không thấy nói là đọc – hiểu. Đối với phân môn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho học viên tập làm theo những đề yêu cầu học viên viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Ở đây bộ đề thi của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trước đây và của Bộ Giáo dục và Đào tạo sau này cũng như phần lớn cách ra đề trong các kì thi tuyển sinh Đại học và Cao đẳng có vai trò tiêu cực trong việc tạo ra một lối làm văn thiên về học thuộc, sao chép và thiếu sức sáng tạo của học viên. Đó cũng là lối dạy làm văn sai tận gốc. Việc đó lại càng thúc đẩy lối học thuộc, học tủ và thí sinh chỉ loanh quanh học thuộc một số bài văn trong chương trình đủ đối phó với các kì thi làm văn.
Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, học viên phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi vì bản chất học tập không phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.
ư phần lớn cách ra đề trong các kì thi tuyển sinh Đại học và Cao đẳng có vai trò tiêu cực trong việc tạo ra một lối làm văn thiên về học thuộc, sao chép và thiếu sức sáng tạo của học viên. Đó cũng là lối dạy làm văn sai tận gốc. Việc đó lại càng thúc đẩy lối học thuộc, học tủ và thí sinh chỉ loanh quanh học thuộc một số bài văn trong chương trình đủ đối phó với các kì thi làm văn. Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, học viên phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi vì bản chất học tập không phải là tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ. Học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của hoạt động của người học. Do đó việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển. Thứ ba, chưa xem học viên là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập. Coi học viên là chủ thể của hoạt động học tập của mình thì học viên phải là người chủ thể trong các hoạt động học tập, là người chủ động kiến tạo các kiến thức của mình mà GV chỉ là người tổ chức các hoạt động học tập cho học viên. Giáo án của giáo viên phải là kế hoạch hoạt động của học viên để tự kiến tạo kiến thức, chứ không phải là Giáo án để giáo viên giảng và bình ở trên lớp. Thứ tư, chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc văn, một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học văn là dạy cảm thụ văn học. Nói như vậy là chưa thật chính xác, bởi vì học viên không phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ âm nhạc hay hội hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh. Trong văn học chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thưởng thức. Đọc không hiểu thì không có gì để cảm thụ cả. Vì thế không thể bỏ qua hoạt động đọc và khái niệm đọc. Có người nói dạy văn là dạy học viên lặp lại, đi trở lại con đường của người sáng tạo văn, tức nhà văn. Đó là nhầm lẫn giữa hoạt động sáng tạo của nhà văn và sáng tạo của người đọc. Thực ra đó là hai hoạt động khác nhau. học viên trước hết phải tiếp cận văn bản như một người đọc đã, sau đó, những ai có năng khiếu sáng tác mới đi lại con đường của nghệ sĩ. Do chưa có khái niệm đọc cho nên chưa có hệ thống biện pháp dạy đọc văn hữu hiệu và hoàn chỉnh. Ngoài việc đọc thành tiếng và đọc diễn cảm, chúng ta hầu như chỉ có các khái niệm giảng, bình, phân tích, bình chú, nêu câu hỏi Có thể là chưa hoàn toàn chính xác, song những điều nói trên có thể coi là bức tranh chung về phương pháp dạy học ngữ văn hiện nay. Một số băng hình “dạy mẫu” do một số chuyên viên Bộ tổ chức quay, tuy có chỉ đạo, gợi ý, bàn bạc trước đã phản ánh rất trung thành tính chất lạc hậu, cũ kĩ về phương pháp dạy học văn ở các trường Trung học phổ thông của chúng ta. Một số sách giáo án mẫu của nhiều chuyên viên, tác giả do viết vội vàng cũng thể hiện sự lạc hậu cũ kĩ so với phương pháp mới. Tất cả những biểu hiện nêu trên của dạy học tiêu cực không chỉ là sản phẩm tiêu cực, thiếu hiệu quả cục bộ của hoạt động dạy học của một số giáo viên hoặc địa phương nào đó, mà là hệ quả của sự lạc hậu về phương pháp tổng thể, kéo dài, chậm khắc phục. Hậu quả của nó không chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục, mà hơn thế, còn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học viên trơ lì, chán học, làm mòn mỏi trí tuệ, phá hoại tư duy. Hệ quả của nó là một hệ quả kép, vừa giảm thiểu kết quả giáo dục vừa phá hoại bản thân giáo dục. Phải thấy rõ điều đó thì mới thấy nhu cầu đổi mới. Do đó muốn đổi mới phương pháp dạy học văn thật sự, vấn đề không chỉ là gợi ra một vài phương pháp, một vài biện pháp kĩ thuật, mà phải xây dựng lại một cách cơ bản quan niệm dạy học mới, vũ trang các khái niệm mới mới mong có sự đổi mới đích thực về phương pháp dạy học ngữ văn. Muốn xác lập hệ thống các phương pháp dạy học ngữ văn trước tiên chúng ta cần xác định nội dung môn học, xác định các hoạt động cơ bản để đạt được kết quả của môn học, rồi từ đó mà xác định các phương pháp cụ thể đặc thù của bộ môn. Phương pháp dạy học ngữ văn phụ thuộc vào đặc trưng của bộ môn. Hơn nữa trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy những mặt thuận lợi và khó khăn đối với việc giảng dạy bộ môn này như sau: Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy học còn hạn chế hơn so với các trường cùng cấp trong tỉnh. Mặt khác, các em đều là trụ cột gia đình đi học còn vướng bận việc gia đình và địa phương, điều kiện xã hội hết sức khó khăn như từ việc tiếp cận thông tin văn hóa thường ngày đến việc đường giao thông đi lại rất khó khăn cũng như điều kiện sống của nhân dân nơi đây là rất thấp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em học viên. Phần nhiều học viên là con em của nhiều dân tộc thiểu số (chiếm hơn 90%), mặt khác các em học viên thuộc nhiều dân tộc khác nhau (gồm dân tộc H.Mông, Nùng, Tày, Pa Dí, Dao), độ tuổi lại không đồng đều cho nên năng lực học tập của các em cũng không đồng nhất. Do đó gặp rất nhiều hạn chế trong tiếp thu bài giảng, và tất nhiên cũng khó khăn hơn nhiều cho giáo viên khi tiếp cận và giảng dạy đối với những học viên này so với các em học viên khác. Hơn nữa phần lớn học viên đến từ nhiều xã khác nhau trên khắp cả huyện, đặc biệt phần lớn lại là con em làm nghề nông nghiệp, điều kiện sống hết sức khó khăn. Có nhiều em không có điều kiện đến trường, chưa kể đến việc có nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc học hành của con em mình mà chỉ lo làm ăn cho đủ qua ngày, qua tháng. Bên cạnh những khó khăn trên cũng có những thuận lợi nhất định: Phần lớn các em có ý thức chấp hành các quy định của Trung tâm và của lớp, biết nghe lời thầy cô giáo và đặc biệt điều đáng mừng nhất là chưa phát hiện học viên có dấu hiệu vi phạm các tệ nạn xã hội như nghiệm ma túy... Hơn nữa, với sự nỗ lực của nhà trường trong việc dạy học phụ đạo yếu kém nên tôi có điều kiện thuận lợi về mặt thời gian để giảng dạy và rèn luyện thêm cho các em trong việc học bộ môn này được tốt hơn. Trong thực tế, tình hình ngại học các bộ môn khoa học xã hội nhân văn, trong đó có bộ môn Ngữ văn đang khá phổ biến ở học viên Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương nói riêng và học sinh Trung học phổ thông nói chung: kiến thức học xong vội quên, nhất là những kiến thức cơ bản cần phải ghi nhớ; trên lớp học viên ngại thảo luận, tranh luận; một không khí buồn tẻ bao bọc nhiều giờ văn. Sự ngại học, coi nhẹ đó dẫn đến thực tế đáng buồn là kết quả thi tốt nghiệp, Đại học, Cao đẳng còn thấp. Nguyên nhân trước hết là do một số giáo viên Ngữ văn chưa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học viên tiếp nhận một cách hứng thú. Việc ôn tập phần văn học - việc mà nhiều người cho rằng dễ vì đã có trong sách giáo khoa, lại càng phải chú ý. Việc ôn tập phần văn học hiện nay, bên cạnh những điều đã làm được vẫn còn một số vấn đề phải bàn. Qua những lần dự giờ thăm lớp theo kế hoạch chuyên môn của tổ, nhà trường, đặc biệt khi làm nhiệm vụ thanh tra hoạt động sư phạm nhà giáo theo quyết định của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Lào Cai, tôi nhận thấy nhiều giáo viên dạy Ngữ văn được thanh tra khi dạy phần ôn tập văn học đã không chú ý đến việc hình thành kĩ năng khái quát hoá từ những gì cụ thể. Giáo viên chủ yếu mới dừng lại ở cấp độ tường thuật, mô tả thông tin chứ chưa hướng học viên tới tầng sâu của thông tin, ví như chỉ cho học viên nêu lại hoàn cảnh sáng tác, chủ đề tác phẩm Cũng có những giáo viên chủ động tìm tòi đưa thêm kiến thức, nhưng lại là những phần kiến thức hầu như ít liên quan đến bài học khiến bài dàn trải. Những câu hỏi đưa ra miễn cưỡng, gượng ép, chưa tiếp nối uyển chuyển giữa các phần kiến thức. Như thế, rõ ràng giáo viên chưa nhận thức rõ vai trò quan trọng việc ôn tập, chưa xác định đúng bản chất của đổi mới phương pháp, tâm lí sợ học viên không biết nên phải nói hết, khả năng linh hoạt trong giờ dạy còn hạn chế. Điều đó đã góp phần đưa đến thực tế: người học ngại học, người dạy ngại dạy. Ôn tập là để cũng cố những kiến thức đã học, mặt khác còn là dịp để tổng kết quá trình học một học kì hay một năm. Việc tổng kết sẽ giúp chúng ta nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Thế nhưng, trong thực tế phần lớn giờ ôn tập văn học còn rất nhiều điều bất cập, chưa đạt được mục đích yêu cầu nêu trên. Những người thầy tâm huyết với nghề, quan ngại trước thực tế dạy- học Ngữ văn đã thấy vấn đề: cần tiếp tục chú trọng hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở đây, tôi nhấn mạnh đến vấn đề rất cụ thể: đổi mới cách dạy phần ôn tập (tổng kết) Văn học. Để thực hiện tốt việc ôn tập văn học theo theo tinh thần đổi mới , phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, bản thân tôi đã không ngừng đổi mới về tư duy, nhận thức từ khâu soạn giáo án (Thiết kế bài học) cho đến cách sử dụng thiết bị dạy học. Lập phiếu điều tra để nắm bắt tình hình học tập của học viên, từ đó điều chỉnh cho phù hợp với thực tế ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương và địa phương. III. Các biện pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn THPT ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên: 1. Vài nét về nội dung ôn tập (tổng kết) văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông: Thời lượng dành cho Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài có nhiều nội dung mới và hay đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá, khả năng hội nhập và giao lưu văn hoá. Dù còn mới mẻ nhưng nội dung các bài như Thơ Hai- cư ( Văn học Nhật Bản), Người trong bao ( Sê- Khốp, Văn học Nga ), Chuyện chức phán sự đền Tản Viên ( Nguyễn Dữ ), Hầu trời ( Tản Đà ), Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu) của văn học Việt Nam . . . nhiều tác phẩm nhật dụng, nghị luận đã góp phần đáng kể giúp học viên có cái nhìn toàn diện, hệ thống về tri thức văn học. Kéo theo đó số tiết ôn tập, trong đó có phần ôn tập Văn học (Văn học Việt Nam và Văn học nước ngoài) tăng lên, được bố trí ở cuối học kì, cuối năm học hay kết thúc một bộ phận, giai đoạn, khuynh hướng văn học nào đó. Bài ôn tập (tổng kết) Văn học được biên soạn có nhiều cải tiến so với trước đây, cụ thể đó không chỉ là những câu hỏi thuần tuý mà còn là những định hướng về nội dung và phương pháp ôn tập. Nội dung trong bài ôn tập Văn học gồm cả văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài, Lí luận văn học. Sự phân bố như vậy là hợp lí, không chỉ về kiến thức mà cả về phương pháp. 2. Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học viên. Tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng trong nhà trường phổ thông đã được chứng minh trong thực tiễn thời gian qua. Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện nhiều giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng đào tạo mà khâu then chốt là không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Xét một cách tổng thể, nhiều vấn đề về lí thuyết dạy học đã được phổ biến, rút kinh nghiệm, song đôi lúc chưa phù hợp ở một số địa phương. Vì thế tôi mạnh dạn đưa ra phương pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên cụ thể như sau: 2.1. Phương pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) Văn học hiện nay Phương pháp dạy phần ôn tập (tổng kết) Văn học đang được sử dụng rộng rãi ở nhà trường phổ thông nói chung và Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương nói riêng hiện nay là giáo viên hướng dẫn học viên làm việc bằng cách hệ thống hoá những tác giả, tác phẩm đã học trong học kì, trong năm, khẳng định một lần nữa những nét chính về nội dung tư tưởng và phong cách nghệ thuật dựa trên sách giáo khoa. Có thầy cô còn khái quát hoá kiến thức cho các em dựa tên mô hình không gian, ví như ở lớp 10 học Văn học dân gian, Văn học trung đại Việt Nam, sử thi ấn Độ, Thơ Đường, tiểu thuyết Minh - Thanh của Văn học Trung Quốc, Thơ Hai- Cư của Nhật Bản; hoặc theo mô hình văn học dân tộc: Pháp có V. Huy- Gô, H. Ban- Dắc; Nga có A. P u- Skin, Sê- Khốp; Văn học Việt Nam có Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệutrong chương trình Văn học 11. Nội dung ôn tập trong sách giáo khoa có những vấn đề lớn, sâu đòi hỏi độ tư duy cao nên trong thực tế giáo viên chỉ chọn một số nội dung đơn giản, dễ dạy. Số câu hỏi, nội dung còn lại hoặc là bị bỏ qua hoặc được giải thích một cách nông cạn, đại khái. Nhìn chung, so với bài đọc văn, bài ôn tập chưa có một cách thiết kế thống nhất (Sách thiết kế của nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhiều nhà giáo, sách giáo viên cũng thực hiện mỗi cách khác nhau). Tuy nhiên, một thực trạng như vậy không hoàn toàn là cái dở mà cũng có cái hay của nó, đó là sự đa dạng về phong cách và phương pháp. Dĩ nhiên điều đó cũng gây nên sự lúng túng, thiếu tự tin, thiếu định hướng cho nhiều giáo viên, kể cả giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy. 2.2. Cách thức tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên. Tôi rất tâm đắc với gợi ý thật cụ thể của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Người thầy phải suy nghĩ, phải chuẩn bị một cách sáng tạo, thầy và trò có thời gian để đối thoại, thảo luận, tranh luận về tất cả cái gì có liên quan đến bài học. Trí tuệ, tài năng, tác phong của người thầy được thể hiện ở đây như nguồn ánh sáng soi vào bóng tối nhằm phát hiện những gì còn ẩn núp ở đó ”. Đây cũng là cơ hội để học viên phát huy những gì là sáng tạo, là độc đáo để góp vào cuộc thảo luận chung. Một trong những vấn đề then chốt trong việc nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn là vấn đề chủ thể học viên. Học viên cần được xác định như là một chủ thể có ý thức. Phát huy tính năng động của chủ thể, năng lực sáng tạo của mỗi người cũng như phát huy chủ thể học viên chính là đáp ứng một phần quan trọng của phương pháp dạy học thời đại bùng nổ thông tin và hội nhập toàn cầu (Điều đó gải thích tại sao nhiều chương trình giáo dục của nước ngoài hết sức linh hoạt, một giờ học có khi cả thầy và trò cùng thảo luận và khám phá bài học). Ở đây, tôi không có tham vọng đưa ra một cách dạy mới thay thế cách dạy phong phú đa dạng mà lâu nay giáo viên vẫn thường sử dụng và còn tiếp tục được sử dụng. Tôi chỉ xin giới thiệu một cách dạy mà ở đó tính chủ động, tích cực của học viên được phát huy. Thời gian gần đây trên các chương trình phát sóng của Đài truyền hình Việt Nam xuất hiện nhiều sân chơi tri thức bổ ích, thú vị, thu hút sự quan tâm yêu thích không chỉ của học viên, sinh viên mà của toàn xã hội như: Ai thông minh hơn học sinh lớp 5, Đấu trường 100, Ai là triệu phú, Đường lên đỉnh Olympia, ở các nhà trường, các lớp vẫn thường xuyên tổ chức những cuộc thi vui về hiểu biết xã hội, kiến thức như: Em yêu khoa học, Tài trí tuổi trẻ thu hút sự quan tâm của đông đảo học viên. Tại sao chúng ta không biến việc ôn tập phần Văn học (cũng như ôn tập tiếng Việt, Làm văn, Lí luận văn học và các bộ môn khác) thành một hoạt động tương tự như thế? Thời gian cho hoạt động ôn tập theo phương pháp này được cân đối cho phù hợp với tiết dạy và khả năng tiếp nhận của học viên. 2.3.Cách tiến hành Để tiến hành hoạt động dạy- học theo yêu cầu trên ta chia lớp thành 4 đội tham dự. Mỗi tổ thành một đội do tổ trưởng làm đội trưởng (hoặc một học viên khá giỏi, nhanh trí, có khả năng thuyết phục người khác), các thành viên của đội được bố trí chỗ ngồi sao cho thuận tiện khi trao đổi, đưa ra đáp án. Thay vì thuyết giảng hoặc gọi học viên trả lời thì giáo viên soạn nội dung cần dạy dưới dạng câu hỏi và tất cả đều có quyền trả lời. Việc tổ chức hoạt động ôn tập này, giáo viên nên dùng giáo án điện tử để thuận tiện cho sử dụng câu hỏi sinh động hơn trong tiết học và nhất là thu hút được học viên. Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học theo hình thức này cần chú ý đến vấn đề thời gian, cần tránh tối đa thời gian “chết” do phải ổn định tổ chức. Vì vậy khâu tổ chức lớp học hết sức quan trọng. Ở những Trung tâm hoặc trường có phòng học bộ môn nên sử dụng cho tiết học này, vừa chủ động được thời gian vừa không ảnh hưởng đến lớp học khác. 2.4. Tạo không khí văn chương trong tổ chức hoạt động ôn tập (tổng kết) Văn học Dạy học là một nghệ thuật tổ chức các hoạt động để thu hút, tạo hứng thú học tập ở học viên. Điều đó càng có ý nghĩa quan trọng với dạy học Ngữ văn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Dạy văn chính là tổ chức tối ưu hoạt động cộng đồng hợp tác giữa thầy và trò để trò tự giác, tích cực, tự lực xử lí cái nghĩa phổ biến của tác phẩm thành cái ý nghĩa độc đáo sáng tạo, phong phú riêng của từng cá nhân ”. Cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm bằng nhiều phương pháp, biện pháp khác nhau. Song một trong những phương pháp giúp học viên tiếp nhận tác phẩm, kiến thức lí luận văn học (kể cả tiếp nhận qua ôn tập) có sự hoà đồng cảm xúc thẩm mĩ, theo tôi chính là tạo được không khí văn chương, làm mất sự căng thẳng, nặng nề của khối lượng kiến thức cần xử lí. Đồng thời tạo được sự dân chủ trong tiếp nhận và lĩnh hội tri thức, khi đó giờ văn sẽ thú vị hơn rất nhiều. Dạy văn, học văn trước hết phải có hứng thú. Trong giờ ôn tập (vốn được xem là khô khan) càng phải gợi được hứng thú ở người học (và cả người dạy). Tạo không khí trong giờ văn nói chung và ôn tập văn học nói riêng là một biện pháp rất quan trọng để học viên bước đầu tiếp nhận văn chương, thiết lập mối quan hệ giữa giáo viên- tác phẩm và học viên. Xây dựng bầu không khí văn chương là cơ sở tâm lí, là nội dung khoa học, là phương pháp tạo cho học viên đi đến sự thăng hoa trong nhận thức, cảm thụ. Có thể hình dung trong quá trình ôn tập văn học, khi tạo bầu không khí văn chương, giáo viên như người dẫn chương trình thông minh, sáng tạo cộng với một chút hóm hỉnh nhằm kích thích các em tư duy. Việc ôn tập có thành công hay không một phần quan trọng dựa vào “cái duyên” này của giáo viên. Tạo không khí văn chương trong khi ôn tập (tổng kết) phần văn học có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: Gợi lại không gian lịch sử, xã hội, văn hoá của những tác phẩm trong bài ôn tập: ở lớp 10 khi ôn tập phần văn học Việt Nam trung đại ( Văn học Lí – Trần ) ta có thể gợi lại không gian lịch sử - văn hoá lúc đó - các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, Nguyên- Mông; sự phát triển của Phật giáo. Ở lớp 11 khi ôn tập cuối học kì I ta có thể gợi lại bối cảnh nông thôn Việt Nam những năm 1930- 1945. Phần văn học nước ngoài cũng có thể làm tương tự. Tạo không khí văn chương bằng cách đưa ra một nhận định tổng quát đòi hỏi học viên phải tư duy và chưa thể giải quyết ngay, từ đó dẫn dắt các em tìm hiểu các nội dung ôn tập để trả lời được vấn đề vừa nêu ra. Mặt khác giáo viên cũng có thể sưu tầm những giai thoại về nhà văn ( những câu về bút danh nhà văn, về công việc viết văn, về đời tư) tạo thêm những hiểu biết lí thú, sôi động của tiết học. Cũng có thể tạo bầu không khí bằng cách giao lưu đối thoại trực tiếp giữa giáo viên- học viên, học viên- học viên ( ví dụ đội 1 trả lời, giáo viên có thể hỏi cách nghĩ của đội 2) tạo nên không khí vui vẻ, phấn khởi trong suốt tiết học. Điều này phụ thuộc nhiều vào sự nhanh trí, phản ứng linh hoạt của giáo viên. Tạo được bầu không khí văn chương thực sự là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự khéo léo, thông minh và tế nhị của người thầy để làm sao giờ học viên động mà hiệu quả, vui vẻ mà nghiêm túc. Việc tạo không khí văn chương trong giờ ôn tập văn học được thực hiện xen kẽ các nội dung hoặc trong quá trình trả lời câu hỏi của học viên. Tuyệt nhiên không lạm dụng, làm mất thời gian của việc ôn tập. Điều đó đòi hỏi sự chủ động, nhạy cảm của giáo viên. 2.5. Hệ thống câu hỏi Trắc nghiệm khách quan T
Tài liệu đính kèm: