Biện pháp 2: Tham mưu bổ sung cơ sở vật chất (viết dài hơn)
Vào đầu năm học tôi tổ chức kiểm kê đồ dùng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng chăm sóc trẻ: Đối với nhà bếp và đối với nhóm lớp xem thiếu gì. Từ đó tham mưu với BGH trang bị đầy đủ đồ dùng, dụng cụ phục vụ tốt cho trẻ trong các giờ ăn, ngủ ở các nhóm lớp và đồ dùng phục vụ công tác chế biến.
Phối hợp với BGH tham mưu với cấp trên đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường
Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng tổ chức bán trú và chăm sóc trẻ hàng ngày.
Tham mưu với BGH ký hợp đồng với nhà cung cấp thực phẩm an toàn có chất lượng để chế biến các món ăn cho trẻ.
Xây dựng mô hình VAC trong trường để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ.
Trong bữa ăn hàng ngày việc xây dựng thực đơn phải đảm bảo theo nguyên tắc không được lặp lại món ăn trong tuần, tận dụng nguồn thực phẩm sẵn có ở địa phương,phù hợp theo mùa và cân đối giữa các chất.
Tổ chức tính khẩu phần ăn bằng phần mềm dinh dưỡng, tính ăn theo thực đơn đảm bảo cân đối giữa các chất: Protit- Lipit- Gluxit.
Tham mưu, vận động phụ huynh để nâng mức ăn của trẻ.
Chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng trong khi sơ chế, chế biến và chia ăn cho các nhóm lớp luôn đảm bảo VSATTP, đúng quy trình.
Chỉ đạo nhóm lớp trong quá trình tổ chức ăn chú ý rèn nề nếp, đảm bảo vệ sinh, động viên trẻ ăn hết xuất, đặc biệt chú ý quan tâm, chăm sóc đối với những trẻ mới đến lớp, trẻ yếu, trẻ suy dinh dưỡng hoặc mới ốm dậy.
Với những trẻ SDD, thừa cân, béo phìtôi tham mưu để có chế độ ăn, luyện tập riêng. Đồng thời chỉ đạo GV luôn phối hợp với gia đình trẻ có biện pháp chăm sóc phù hợp nhất.
Xây dựng chuyên đề tổ chức hoạt động ăn, ngủ ở hai khối nhà trẻ và mẫu giáo. Qua đó giáo viên trao đổi kinh nghiệm trong việc rèn nề nếp ăn, ngủ và vệ sinh cho trẻ hàng ngày của lớp mình.
Chỉ đạo giáo viên vệ sinh phòng, nhóm, đồ dùng đồ chơi thường xuyên bằng dung dịch cloramin B. Tổ chức phun thuốc diệt muỗi, côn trùng để tránh các bệnh truyền nhiễm như tay chân miệng, đau mắt đỏ, bệnh thủy đậu vv.
Mỗi tháng 1 buổi học tập trung, phát huy vai trò của tổ trưởng, tự trao đổi, bồi dưỡng theo nhu cầu đưa vào sinh hoạt chuyên môn. Khuyến khích GV tự học tự bồi dưỡng. Ngoài ra chỉ đạo tổ trưởng xây dựng chuyên đề tổ chức hoạt động ăn, ngủ ở hai khối nhà trẻ và mẫu giáo. Hướng dẫn nhân viên cấp dưỡng tự học tập trao dồi kiến thức về chế biến các món ăn từ nhiều loại thực phẩm phù hợp với trẻ. Thông qua hình thức tiết học củng cố, hệ thống hoá, chính xác hoá những kiến thức về dinh dưỡng - sức khoẻ mà trẻ đã làm quen ở mọi lúc mọi nơi, phát triển trí tuệ cho trẻ. Nội dung giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe có thể được tích hợp ở các hoạt động học khác nhau, ở mọi lúc mọi nơi: (nội dung này không liên quan đến tên của giải pháp) a. Qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện, đọc thơ. Thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện, đọc thơ trẻ được học các bài thơ, câu chuyện, bài vè, câu đố về một số loại rau, củ, quả hay những thói quen văn minh trong đời sống sinh hoạt. Ví dụ: Khi trẻ học bài thơ “Hoa kết trái” muốn cho hoa đẹp và kết thành nhiều trái cho chúng mình ăn thì các con phải làm gì? Phải chăm sóc cây hoa, tưới nước, nhổ cỏ cho cây và không được ngắt lá bẻ cành. Cô giáo dục trẻ biết thường xuyên ăn rau và ăn đa dạng nhiều loại rau, củ, quả khác nữa. Không những vậy trẻ còn học được bài học yêu quý người trồng rau, bài học cần chăm sóc, tưới nước, bắt sâu thì mới có những loại rau củ quả ngon cho các con ăn hàng ngày. Đặc biệt còn có những câu chuyện giáo dục kĩ năng sống gần gũi, góp phần hình thành thói quen văn minh, thói quen tự phục vụ cho trẻ như câu chuyện “Gấu con bị sâu răng” giáo dục trẻ biết đánh răng, rửa mặt vào sáng sớm khi ngủ dậy. Lớp 4TA2: Hoạt động học b. Qua hoạt động làm quen với môi trường xung quanh: - Trẻ biết tên gọi, đặc điểm cấu tạo của đối tượng, biết được thành phần các chất và giá trị dinh dưỡng của đối tượng đó đối với cơ thể con người. - Trẻ biết được lợi ích của các chất đạm, chất béo, chất bột đường, chất Vitamin và muối khoáng với cơ thể con người. VD: Cô cho trẻ tìm hiểu về một số loại rau. Sau khi trẻ quan sát, nhận xét về đặc điểm, cách chế biến và biết đâu là rau ăn củ, đâu là rau ăn lá, đâu là rau ăn quả. Cô khái quát và tích hợp giáo dục dinh dưỡng: Trong các loại rau, củ, quả có nhiều Vitamin và khoáng chất ăn vào giúp cơ thể chúng ta phát triển khỏe mạnh, tăng sức đề kháng với bệnh tật... Lớp 3TA1: Quan sát vườn rau cải Ví dụ: Hoạt động học “Làm quen với một số con vật nuôi trong gia đình” Sau khi cho trẻ quan sát và nhận xét về đặc điểm nổi bật của con gà cô tích hợp giáo dục dinh dưỡng: Gà là động vật nuôi trong gia đình có 2 chân gà mái thì cung cấp thịt, trứng, gà trống cung cấp thịt. Trong thịt gà, trứng gà cung cấp cho chúng ta chất đạm, giúp cho cơ thể phát triển cân đối, khoẻ mạnh. Thông qua việc giáo dục đó giúp trẻ biết ích lợi của thực phẩm động vật và trẻ có hứng thú về ăn các loại thực phẩm đó. c. Tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe trong hoạt động âm nhạc, hoạt động tạo hình. Thông qua những bài hát, những giai điệu gần gũi cô giáo tích hợp nội dung giáo dục muốn cho cơ thể khỏe mạnh các con phải ăn đầy đủ các loại thực phẩm giàu chất đạm, vitamin... giáo dục thói quen vệ sinh các nhân cho trẻ. Qua hoạt động học lĩnh vực phát triển thể chất cô giáo, giáo dục trẻ siêng năng tập thể dục để cơ thể khỏe mạnh, phát triển cân đối, toàn diện. Hay thông qua hoạt động tạo hình trẻ vẽ, nặn, xé, dánnhững loại rau, củ, con vật, thực phẩm qua đó trẻ được khắc sâu, mở rộng kiến thức. Hoạt động tạo hình của lớp 5TA2 Hoạt động tạo hình của lớp 5TA1 7.2. Biện pháp 2: Tham mưu bổ sung cơ sở vật chất (viết dài hơn) Vào đầu năm học tôi tổ chức kiểm kê đồ dùng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng chăm sóc trẻ: Đối với nhà bếp và đối với nhóm lớp xem thiếu gì. Từ đó tham mưu với BGH trang bị đầy đủ đồ dùng, dụng cụ phục vụ tốt cho trẻ trong các giờ ăn, ngủ ở các nhóm lớp và đồ dùng phục vụ công tác chế biến. Phối hợp với BGH tham mưu với cấp trên đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường 7.3. Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng tổ chức bán trú và chăm sóc trẻ hàng ngày. Tham mưu với BGH ký hợp đồng với nhà cung cấp thực phẩm an toàn có chất lượng để chế biến các món ăn cho trẻ. Xây dựng mô hình VAC trong trường để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ. Trong bữa ăn hàng ngày việc xây dựng thực đơn phải đảm bảo theo nguyên tắc không được lặp lại món ăn trong tuần, tận dụng nguồn thực phẩm sẵn có ở địa phương,phù hợp theo mùa và cân đối giữa các chất. Tổ chức tính khẩu phần ăn bằng phần mềm dinh dưỡng, tính ăn theo thực đơn đảm bảo cân đối giữa các chất: Protit- Lipit- Gluxit. Tham mưu, vận động phụ huynh để nâng mức ăn của trẻ. Chỉ đạo nhân viên cấp dưỡng trong khi sơ chế, chế biến và chia ăn cho các nhóm lớp luôn đảm bảo VSATTP, đúng quy trình. Chỉ đạo nhóm lớp trong quá trình tổ chức ăn chú ý rèn nề nếp, đảm bảo vệ sinh, động viên trẻ ăn hết xuất, đặc biệt chú ý quan tâm, chăm sóc đối với những trẻ mới đến lớp, trẻ yếu, trẻ suy dinh dưỡng hoặc mới ốm dậy. Với những trẻ SDD, thừa cân, béo phìtôi tham mưu để có chế độ ăn, luyện tập riêng. Đồng thời chỉ đạo GV luôn phối hợp với gia đình trẻ có biện pháp chăm sóc phù hợp nhất. Xây dựng chuyên đề tổ chức hoạt động ăn, ngủ ở hai khối nhà trẻ và mẫu giáo. Qua đó giáo viên trao đổi kinh nghiệm trong việc rèn nề nếp ăn, ngủ và vệ sinh cho trẻ hàng ngày của lớp mình. Chỉ đạo giáo viên vệ sinh phòng, nhóm, đồ dùng đồ chơi thường xuyên bằng dung dịch cloramin B. Tổ chức phun thuốc diệt muỗi, côn trùng để tránh các bệnh truyền nhiễm như tay chân miệng, đau mắt đỏ, bệnh thủy đậu vv... 7.4. Biện pháp 4: Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe cho trẻ thông qua các hoạt động. a. Thông qua dạo chơi, các hoạt động trải nghiệm Không chỉ được học tập trong lớp trẻ còn được học xen kẽ chơi ngoài trời. Một hoạt động tích hợp được nhiều lợi ích với trẻ mầm non trong đó có những lợi ích nhất định về giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe. Thông qua một buổi dạo chơi vừa giúp trẻ nhận biết các đặc điểm cơ bản của đối tượng, vừa giúp trẻ hiểu thêm về thành phần dinh dưỡng, lợi ích của của đối tượng với sức khỏe con người. VD: Cho trẻ tìm hiểu về quả su su, quả bầu. Cô giáo dục trẻ trong rau, củ, quả có chứa nhiều Vitamin và chất xơ và muối khoáng, cho nên các con cần ăn nhiều rau rất tốt cho cơ thể mình, vậy để có rau ăn các con phải chăm sóc, bảo vệ các loại rau nhé. Lớp 3TA2: Quan sát vườn hoa Lớp 3TA2 làm bánh trôi trong ngày tết Hàn Thực Toàn trường làm bánh trôi trong ngày tết Hàn Thực b. Hoạt động góc Hoạt động góc ở trường mầm non là hoạt động có ý nghĩa to lớn đối với trẻ. Vì hoạt động góc chính là những dạng trò chơi bổ ích, thế giới người lớn được tái hiện trong các trò chơi. Từ đó trẻ học được kinh nghiệm của con người qua các vai chơi. Nhằm kích thích, thu hút, lôi cuốn trẻ tham gia giải quyết những nhiệm vụ học tập như khám phá mối liên kết giữa hành vi và sức khoẻ, củng cố sự hiểu biết của trẻ về giáo dục dinh dưỡng- sức khỏe. Khi trẻ được chơi trò chơi như: Trò chơi “Cửa hàng bách hoá” người bán hàng phải chào khách mua hàng, phải nói được tên hàng và giá trị dinh dưỡng của mặt hàng đó, quảng cáo các mặt hàng. Người mua hàng đi mua phải nói được tên mặt hàng, hỏi người bán hàng về các chất dinh dưỡng có trong mặt hàng mình cần mua. Trò chơi “cửa hàng ăn uống” phải biết chế biến ra các món ăn từ các thực phẩm được mua về và nói được các chất dinh dưỡng của nhóm đó khi khách hỏi. Đồng thời với việc trẻ biết về các chất dinh dưỡng trong các món ăn, trẻ còn học được kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm, hình thành thói quen giao tiếp văn minh, lịch sự. Lớp 5TA2: Hoạt động góc c. Hoạt động chiều Hoạt động chiều là thời gian lí tưởng để thực hành giáo dục các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giữ gìn sạch sẽ thân thể và giáo dục an toàn cho trẻ. Cần phải kiên trì hướng dẫn cho trẻ để trẻ có kĩ năng và hình thành thói quen hàng ngày. Tạo cho trẻ môi trường để trẻ luôn được thực hành và ghi nhớ những điều đã học. VD: Muốn hình thành thói quen giữ tay, chân, mặt mũi luôn sạch, bên cạnh việc hướng dẫn trẻ thực hành, cần có đủ điều kiện để trẻ tự làm như có đủ nước sạch để rửa tay, chân; có vòi, có chậu, khăn lau, bàn chải đánh răng v.v... Nhà trường cần phối hợp với gia đình để hình thành thói quen thực hành vệ sinh ở trẻ. Người lớn phải làm gương cho trẻ, giúp trẻ được sống trong môi trường sạch sẽ để từ đó hình thành thói quen tốt. 7.5. Biện pháp 5: Chỉ đạo giáo viên giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe cho trẻ thông qua tổ chức giờ ăn cho trẻ ở trường mầm non. - Căn cứ vào thực tế bữa ăn của trẻ với mức đóng góp của phụ huynh là 20.000đ/ trẻ/ ngày. Trẻ ăn tại trường đối với: + Mẫu giáo gồm: 1 bữa sáng, 1 bữa chính, 1 bữa phụ + Nhà trẻ gồm: 1 bữa sáng, 2 bữa chính, 1 bữa phụ - Năng lượng bình quân cho trẻ một ngày đạt từ : 735 - 880 KCal . - Xây dựng thực đơn theo mùa, theo tuần. - Tính khẩu phần ăn hàng ngày . - Thực hiện tốt chế độ vệ sinh an toàn thực phẩm. - Đảm bảo khoảng cách giữa các bữa ăn của trẻ trong ngày sao cho 2 bữa ăn của trẻ không quá gần nhau, kịp thời bổ sung năng lượng cho cơ thể trẻ không để trẻ bị đói mới cho ăn hoặc vẫn còn no lại cho ăn tiếp gây lên sự chán ăn ở trẻ. - Trong bữa ăn của trẻ tại trường hàng ngày trẻ được cô nhà bếp chế biến các món ăn hợp khẩu vị của trẻ và thường xuyên thay đổi món ăn nên khi tổ chức bữa ăn cho trẻ giáo viên kết hợp lồng ghép giáo dục dinh dưỡng cho trẻ. Lớp 5TA1: Giờ ăn trưa Giờ ăn trưa của lớp 5TA2 7.6. Biện pháp 6: Xây dựng môi trường giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe thân thiện, an toàn cho trẻ. a. Xây dựng góc tuyên truyền Nhà trường có các bảng biểu tuyên truyền về sức khỏe dinh dưỡng như: “10 nguyên tắc vàng trong chế biến thực phẩm”, “10 lời khuyên về dinh dưỡng hợp lý”, điển hình hay gặp cho các bậc phụ huynh. Nhà trường in ấn và treo các hình ảnh, tranh minh họa về các hoạt động giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng tự phục vụ, những kiến thức về an toàn và phòng tránh nguy hiểm cho trẻ để giúp phụ huynh biết rõ hơn. Hàng quý cân, đo trẻ và bá
Tài liệu đính kèm: