Đề tài Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Đề tài Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12

Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó.

Nó là kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là sản phẩm từ sự tổng hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó. Phân tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp của nhà văn, để thêm thú vị khi thưởng thức một giá trị thẩm mĩ.

Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi phân tích một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại mấy điều này, chúng tôi xin lưu ý các bạn hai nhược điểm mà không ít người phân tích nhân vật thường mắc phải:

Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các phẩm chất, vẻ đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Chữ phân tích ở đây không nên hiểu chỉ là một thao tác nghị luận (chỉ ra các đặc điểm của nhân vật) mà bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy nghĩ của mình.

Thứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên tầm khái quát để rút ra tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ rằng khi xây dựng một nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ nhà văn cũng muốn gửi gắm qua đó một cách nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu phân tích nhân vật mà chỉ dừng ở nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của nhân vật ấy trong chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những phương diện người đọc, người phân tích cần lưu ý.

 

doc 36 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1940Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Rèn kỹ năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện cho học sinh lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiên, vô tư mà dũng cảm, gắn bó với những người thân và giàu tinh thần trách nhiệm với truyền thống của gia đình, quê hương:
+ Tính cách trẻ con, hồn nhiên, vô tư: tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị; trong khi chị Chiến lo toan thu xếp việc gia đình thì Việt “lăn kềnh ra ván cười”, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” rồi ngủ quên lúc nào không biết; đi đánh giặc vẫn đeo ná thun; không sợ giặc nhưng lại sợ ma; mỗi lúc tỉnh lại ngoài chiến trường, Việt nhớ về gia đình, thèm được má cưng chiều
+ Tình cảm gắn bó và ý thức trách nhiệm với truyền thống gia đình:
* Gắn bó, yêu thương những người thân: tình cảm gia đình được thể hiện qua dòng hồi ức của Việt về ba má, chú Năm, chị Chiến
* Có ý thức trách nhiệm thiêng liêng của một đứa con với truyền thống gia đình: lòng căm thù giặc, khát vọng cầm súng chiến đấu trả thù cho ba má, bảo vệ gia đình, quê hương
* Chiến đấu gan góc, quả cảm: diệt được xe bọc thép của giặc; bị thương nặng, lạc đồng đội, trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm về với anh em, để tiếp tục đấu tranh; một mình ở lại giữa chiến trường nhưng vẫn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu
- Cách trần thuật này rất hữu hiệu trong việc thể hiện nội dung tư tưởng chủ đạo: gia đình là cội nguồn sâu thẳm nhất của con người, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng, vì nó đã hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.
- Cách kể chuyện này có hai tác dụng về nghệ thuật: câu chuyện vừa được kể, cũng là lúc tính cách nhân vật  được khắc họa; câu chuyện  trở nên mới mẻ, hấp dẫn vì được kể qua con mắt, tấm lòng và bằng ngôn ngữ, giọng điệu riêng của nhân vật.
3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
            Nhà văn dựng tình huống tâm trạng nên trần thuật theo dòng ý thức của nhân vật. Qua đó thể hiện:
- Phẩm chất anh hùng của người nông dân Nam Bộ với ý tưởng nghệ thuật: người anh hùng là sản phẩm của một thời đại, đồng thời là sản phẩm của một truyền thống gia đình.
           - Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ví dụ: Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
1. Xác định tình huống
            Truyện ngắn xoay quanh một tình huống chủ chốt: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ. Nhưng ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy. Những ngày sau, cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình của chị.
2. Phân tích tình huống
- Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Sau nhiều ngày “phục kích”, Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Nhưng oái oăm thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước ra từ thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ, đánh lại cha.
            - Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa án đã đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên chị ly hôn nhưng thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ từ chối, thậm chí van xin tòa án cho chị không bỏ chồng. Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của người phụ nữ làng chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì con, sống cho con chứ không thể sống vì bản thân. Và trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ.
            Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về nguyên nhân bi kịch và tính cách của các nhân vật:
+Gánh nặng mưu sinh đã làm cho người chồng thay đổi tính cách từ hiền lành sang thô bạo. Người chồng vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo vừa là thủ phạm gây ra nỗi đau cho vợ và con.
+Người vợ là một phụ nữ nhẫn nhịn, cam chịu, giàu lòng vị tha, bao dung, giàu lòng thương con. Chị thấu hiểu sâu sắc lẽ đời.
            +Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Anh hiểu rằng, con người và cuộc sống phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng lý giải và can thiệp như anh tưởng lúc ban đầu.
            +Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, toàn bích có thể che khuất cái bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ, cơ cực lại có thể chứa đựng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm chính mình.
3. Ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện
            Tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà văn về cách để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời:
+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lý. Cần nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
+ Muốn giúp đỡ con người không chỉ dựa vào thiện chí hay kiến thức sách vở mà phải thấu hiểu cuộc sống của họ và có những biện pháp thiết thực.
+ Con người ta luôn phải nhìn lại mình. Hoạt động tự ý thức khiến con người ngày càng hoàn thiện hơn.
            + Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc sống. Nghệ thuật chân chính là cuộc sống và phải luôn luôn vì cuộc sống.
Tóm lại:
            - Giảng dạy tác phẩm truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện có nhiều ưu điểm:
            + Giúp học sinh cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc theo đặc trưng thể loại.
+ Học sinh nắm được những nét riêng của từng truyện, đồng thời thấy được tài năng và cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.
- Giảng dạy tác phẩm truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện cần lưu ý:
+ Nghệ thuật tạo dựng tình huống là tạo hoàn cảnh đặc trưng, đặt nhân vật vào một hoàn cảnh đặc biệt nào đấy để nhân vật bộc lộ hết tính cách, tâm trạng của mình.
+ Khi phân tích tình huống cần theo các bước:
* Xác định tình huống.
* Phân tích diễn biến tình huống.
* Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống truyện.
+ Hạt nhân của thể loại truyện ngắn là tình huống truyện nhưng cũng không phải là yếu tố duy nhất để thể hiện hết chủ đề, tư tưởng và ý dồ nghệ thuật của nhà văn. Do đó, khi phân tích tình huống truyện cần phải phân tích nhân vật, giọng điệu, kết cấu để có sự đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
+ Khai thác và giảng dạy truyện ngắn từ góc độ tình huống không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một phương pháp hiệu quả để khám phá tư tưởng chủ đề của tác phẩm. 
IV. Phân tích chi tiết trong tác phẩm văn xuôi tự sự.
Trong một tác phẩm thường có nhiều chi tiết nhưng không phải mọi chi tiết đều có giá trị ngang bằng nhau. Có các chi tiết có thể lướt qua hoặc bỏ đi cũng không sao. Có các chi tiết thể hiện thần thái nhân vật, cô đọng nội dung, giá trị của tác phẩm, như một giọt nước mà qua đó có thể thấy cả cốc nước. Bởi thế, người đọc văn, phân tích văn phải biết lướt qua những chi tiết vụn vặt, ngẫu nhiên, đồng thời nắm bắt lấy và tập trung phân tích các chi tiết tiêu biểu, đắt giá nhất. 
Cảm thụ tác phẩm truyện, GV và HS phải ý thức rõ đâu là điểm chính, biết dừng lại phân tích sâu một số chỗ mình tâm đắc. Đã không ít người viết về Vợ chồng A Phủ, phân tích quá trình trỗi dậy của sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị vào đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình nhưng mấy ai cảm nhận hết ý nghĩa của hành động Mị uống rượu trong đêm ấy. Tiếng sáo gọi bạn tình ngoài đầu núi vọng tới bắt đầu đánh thức nỗi nhớ hạnh phúc thời tuổi trẻ, ý niệm về thời gian trong người phụ nữ đang sống trong đắng cay, bất hạnh. Mị thiết tha bổi hổi rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo. Khi từ trong buồng bước ra (căn buồng chật hẹp, tối tăm, chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay bấy lâu nay giam hãm tuổi xuân của người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa) Mị thấy xung quanh mình đang rất ồn ào. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, đang đánh chiêng, ốp đồng, nhảy múa và lại uống rượu bên bếp lửa. Nhìn mọi người như thế, Mị nghĩ “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu”. Cô lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. 
Cần lí giải hành động uống rượu của Mị lúc ấy thế nào? Đó chính là một phản ứng từ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy. Là con người, ai chẳng có quyền uống chút rượu ngày Tết. Người ta uống thì Mị cũng phải uống để chứng tỏ mình còn là một con người. Thế là ý thức về quyền làm người, quyền bình đẳng đã trở lại trong Mị. Mị uống đến thế để dằn nén xuống nỗi uất ức và cả khát vọng sống đang trỗi lên trong mình. Mị uống đến thế cho bõ tức, bõ hờn, uống như sự trả thù lũ người độc ác kia. Chi tiết trong văn chương là thế – vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều ý nghĩa. Lắm khi qua một chút bên ngoài ta phải đọc ra thế giới nội tâm của nhân vật.
Chúng ta cũng có thể nói như trên chẳng hạn với chi tiết Tràng khoe chai dầu với người vợ nhặt (Vợ nhặt Kim Lân). Bấy lâu nay tối đến mẹ con Tràng nào có dầu mà thắp đèn. Nhưng hôm nay được một người phụ nữ theo mình về nhà làm vợ, người đàn ông này mới quyết định mua hai hào dầu trên chợ tỉnh. Vậy mà Tràng đâu đã dám nói với người vợ nhặt. Mãi đến khi đi đến chỗ khuất, không có ai nhìn theo nữa, Tràng mới chậm bước lại, đi sát người vợ nhặt rồi giơ cái chai dầu vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe Kim Lân đã miêu tả hành động, những lời trêu đùa của Tràng và người vợ nhặt khi ấy bằng đôi mắt nheo cười thật hóm hỉnh. Phải thấu hiểu, trân trọng niềm vui hạnh phúc bình dị ở người dân nghèo đến chừng nào mới viết nổi chi tiết ấy, mới để Tràng chặc lưỡi nói: “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hì hì”. Cũng thế, không sống sâu sắc với nhân vật của mình, làm sao diễn tả được cảm giác: “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó mơn man, ôm ấp khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.” Khi phân tích chi tiết, cần đặt nó trong dòng cốt truyện, trong nội dung phản ánh của tác phẩm để xác định đúng vị trí, ý nghĩa của chi tiết ấy. Cảm nhận được giá trị của các chi tiết tiêu biểu rồi thì phải tập trung phân tích, bàn luận về nó.
V. Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó.
Nó là kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là sản phẩm từ sự tổng hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó. Phân tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc điểm bút pháp của nhà văn, để thêm thú vị khi thưởng thức một giá trị thẩm mĩ.
Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi phân tích một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại mấy điều này, chúng tôi xin lưu ý các bạn hai nhược điểm mà không ít người phân tích nhân vật thường mắc phải:
Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các phẩm chất, vẻ đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Chữ phân tích ở đây không nên hiểu chỉ là một thao tác nghị luận (chỉ ra các đặc điểm của nhân vật) mà bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy nghĩ của mình.
Thứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên tầm khái quát để rút ra tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ rằng khi xây dựng một nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ nhà văn cũng muốn gửi gắm qua đó một cách nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu phân tích nhân vật mà chỉ dừng ở nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của nhân vật ấy trong chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn không trực tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những phương diện người đọc, người phân tích cần lưu ý.
1. Lai lịch
Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối con đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong bản “Sơ yếu lí lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy. 
Hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ, hành vi vô giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị đuổi ra khỏi nhà) cùng những thành tích bất hảo trong cuộc sống lang thang hè đường xó chợ của Xuân Tóc Đỏ đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của y sau này (Số đỏ Vũ Trọng Phụng). 
Ngay từ khi được sinh ra đã bị vứt khỏi lề cuộc sống, được người ta nhặt về nuôi rồi hết đi ở cho nhà này sang nhà khác, không bà con thân thích, không thước đất cắm dùi – hoàn cảnh xuất thân ấy là một nguyên nhân tạo nên số phận cô độc thê thảm của Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao). 
Tính cách nhân vật được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
2. Ngoại hình
 Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích. Thứ nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy (không thể lẫn vào các nhân vật khác). Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách, bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc họa chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của một nhân vật nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ cũng là “con người này” khác với con người kia, con người nọ
 Trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nữ thanh niên người Pháp đi trên toa xe điện ngầm), tác giả Nguyễn ái Quốc đã phác họa chân dung Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à?”. Các chi tiết này vừa có giá trị tả thực về Khải Định vừa ám chỉ thật sâu cay tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương của ông vua bù nhìn An Nam. 
Đến với Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), chúng ta ấn tượng bởi hình ảnh một cô gái lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Nhà văn đặc tả một hình dáng khi nào cũng cúi mặt nhìn đất mà không dám ngẩng cao, nhìn xa một chút. Một khuôn mặt xinh đẹp là thế mà mang nỗi u sầu thăm thẳm. Chi tiết này khiến ta ấn tượng với thân phận tủi nhục của người con dâu gạt nợ.
Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường hợp, đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng có những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật khớp”, thậm chí trái ngược nhau. Lão Hạc (truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao) thân hình nhỏ thó, bộ mặt nhăn nheo như quả trám nhưng lòng tự trọng, tình thương yêu thì lớn lao, cao cả ít ai bằng.
3. Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy. Ngôn ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ.
Nhắc tới nhân vật cố Hồng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chúng ta nhớ ngay đến câu gắt đầu cửa miệng “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” mặc dầu ông ta chẳng biết cho ra đầu ra đũa việc gì cả. Cho đến khi trở thành “nhà cải cách thẩm mĩ”, “đốc-tờ Xuân”, “giáo sư quần vợt”, “cố vấn báo Gõ mõ” được cả xã hội thượng lưu thành thị trọng vọng, Xuân Tóc Đỏ vẫn đầu cửa miệng mấy chữ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Điều ấy chứng tỏ cái bản chất lưu manh, vô học của y không sao gột rửa nổi. 
Trong Rừng xà nu ngôn ngữ của nhân vật Tnú nhiều khi ngắn gọn, chắc nịch, chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, dứt khoát: “Chỉ còn thằng chỉ huy dưới hầm. Kêu nó không lên. Bỏ lựu đạn, nó có ngách. Người chỉ huy mình hỏi: Ai xuống? Tôi xuống. Tối lắm. Tôi mò thấy nó. Nó bắn. Tôi giật được súng nó. Nó vật tôi. Nhưng tôi mạnh hơn. Tôi tống đầu gối lên ngực nó. Tôi bóp đèn pin lên mặt nó: Dục, mày còn nhớ tau không? Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ chứ? Tau vẫn cầm được súng! Mắt nó trắng giã. Tôi nói: Này, tau có súng đây, tau có cả dao găm đây. Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao nghe chưa! Dục! Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày thôi!”. Quả là đôi bàn tay dồn nén căm hờn, đôi bàn tay quả báo. Con người miền núi là thế: yêu ai, yêu hết lòng, ghét ai, ghét tận độ. Từ ngày thằng Dục dẫn lính về đàn áp dân làng, đánh đập chết mẹ con Mai, Tnú khắc sâu mối thù. Cái tên thằng Dục in đậm trong tâm khảm Anh muốn chứng tỏ với kẻ thù rằng đôi bàn tay từng bị hành hạ dã man trước đây để dập tắt mộng cầm súng, mỗi ngón đã bị cụt một đốt, lúc này vẫn thừa sức trả thù. Ngôn ngữ ấy, những lời hỏi, lời cảnh cáo cùng cách trả thù ấy chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, một hành động quyết liệt.
4. Nội tâm
Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác, cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ Thế giới bên trong này thường tương tác với thế giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có qui luật vận động riêng của nó. Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi chứng tỏ năng lực của người phân tích tác phẩm. 
Bố cục truyện ngắn Hai đứa trẻ vận động theo dòng cảm giác bâng khuâng, tâm trạng buồn man mác của nhân vật Liên trong không gian phố huyện nhỏ trước giờ khắc ngày tàn rồi dần về đêm. Tính trữ tình, sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thể hiện qua việc diễn tả bao biến thái nhẹ nhàng của cảnh vật và sự hòa điệu của lòng người. 
Cũng tương tự như thế, hãy chú ý hành động thắp sáng thêm đĩa đèn của người phụ nữ này sau đó: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Hành động này có ý nghĩa gì? Bấy lâu nay Mị có bận tâm gì đến bóng tối hay ánh sáng xung quanh mình đâu. Cuộc đời đối với người con dâu gạt nợ chỉ như một đêm dài thăm thẳm. Nhưng giờ đây có lẽ Mị không còn chịu nổi bóng tối đang vây bọc quanh mình nữa. Thắp sáng thêm đĩa đèn hay là người phụ nữ này đang muốn thắp sáng lại cuộc đời mình? Tiếp theo hành động uống rượu để lòng càng nhớ về ngày trước, để thấy mình còn trẻ, hành động này chứng tỏ phản kháng âm thầm mà quyết liệt, chứng tỏ sóng cuộn trong chiều sâu tâm trạng từ khi nghe tiếng sáo gọi bạn yêu l

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_cach_cam_thu_truyen_ngan_hieu_qua_0934_2002942.doc