Để nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn, những cán bộ quản lý phải xây dựng một nề nếp sinh hoạt cụ thể. Ở trường tôi, lãnh đạo trường quy định tổ chuyên môn sinh hoạt: 2 tuần/lần, lãnh đạo nhà trường thay phiên sinh hoạt chuyên môn với các khối để trực tiếp trao đổi, thảo luận và chỉ đạo kịp thời những vấn đề còn thiếu sót, khó khăn. Mỗi tháng Ban giám hiệu thống nhất trước với các tổ trưởng chuyên môn để phổ biến những nội dung cơ bản của buổi họp tổ.
Ví dụ 1: Sinh hoạt chuyên môn về phương pháp dạy học: Chúng tôi quan tâm đến những vấn đề cụ thể mà giáo viên quan tâm, vướng mắc, khó khăn cần được chia sẻ, hỗ trợ trong hoạt động dạy học. Chính vì vậy ngay từ đầu năm chúng tôi đã xây dựng những tiết dạy chuyên đề, phân công giáo viên dạy minh họa. Với Mô hình Trường học mới, việc dự giờ của giáo viên cũng có nhiều thay đổi, giáo viên dự giờ không ngồi yên một chỗ, không chăm chăm quan sát người dạy mà quan sát chủ yếu là các hoạt động học tập và thái độ của HS, quan sát cách làm việc của Hội đồng tự quản lớp học và đội ngũ trưởng nhóm học tập, quan sát xem HS có tham gia hoạt động tích cực, có say sưa hứng thú với bài học hay không và sự hỗ trợ của giáo viên đối với HS xem có kịp thời hay không,. Trong quá trình dự giờ người dự có thể ghi hình toàn bộ dễn biến của tiết dạy bằng máy quay hoặc điện thoại. Đây chính là hình thức dự giờ theo VNEN và cũng chính là một trong những hình thức đổi mới của sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học.
Ví dụ 2: Sinh hoạt chuyên môn qua việc làm đồ dùng dạy học: Dạy học theo tài liệu 3 trong 1 của Dự án, giáo viên đã không còn phải vất vả soạn bài như trước, tuy nhiên để có những tiết học thực sự hiệu quả thì mỗi giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài học và chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học trong các hoạt động sinh hoạt tổ chuyên môn chúng tôi đã tổ chức cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và làm đồ dùng dạy học. Qua các buổi sinh hoạt đó tạo đều kiện cho giáo viên được thỏa sức sáng tạo cùng nhau thiết kế những bộ đồ dùng có thể sử dụng chung cho các lớp trong khối.
Ví dụ 3: Sinh hoạt chuyên môn về nội dung phụ huynh và cộng đồng tham gia vào giáo dục. Mô hình trường học mới xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, tương tác giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Qua những nội dung chia sẻ trong sinh hoạt tổ chuyên môn đã giúp mỗi giáo viên lựa chọn cho mình các thức tuyên truyền tới phụ huynh và cộng đồng sao cho hiệu quả.
còn hạn chế. Học sinh sống trên 5 thôn buôn, đa số các em là con nông dân lao động nghèo nên có một số trở ngại trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Yêu cầu của chương trình mô hình trường học mới là học sinh khi học lên lớp 2 phải biết đọc và viết thành thạo, thì mới tự học được, nhưng thực tế vẫn còn tỉ lệ học sinh dân tộc yếu Tiếng Việt . Học sinh thiếu kĩ năng sống do vốn tiếng Việt ít như với điểm trường Buôn Drai 100% học sinh là người dân tộc thiểu số; điểm trường buôn Eana có 50% học sinh là dân tộc thiểu số do đó khi thực hiện Mô hình mới học sinh hoạt động còn trầm, vốn từ vựng còn nghèo nàn, sự rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp. 2.2. Thành công - hạn chế * Thành công Trình độ chuyên môn giáo viên trong trường có chiều hướng phát triển tích cực hơn. Chất lượng giảng dạy của giáo viên, học sinh được nâng cao hơn năm trước. Đặc biệt là thay đổi cách dạy, cách học mới cho cả giáo viên và học sinh phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại. Công tác tự học, tự rèn của giáo viên được cập nhật thường xuyên hơn. Đội ngũ giáo viên ý thức được việc bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn là nhiệm vụ của mỗi cá nhân nên đa số giáo viên có ý thức tự học tự rèn tốt, chất lượng giáo dục, kết quả các cuộc thi cấp huyện, cấp tỉnh ngày càng tăng.chất lượng giáo dục học sinh thực hiện theo chương trình VNEN được nâng lên rõ rệt. Phụ huynh học sinh tham gia vào việc hỗ trợ học sinh học tập và rèn kĩ năng sống cho các em có hiệu quả, tạo sự tin tưởng cho phụ huynh học sinh với kết quả học tập của con em mình. Đã áp dụng thực tế, có được kết quả khảo nghiệm, rút ra được các biện pháp bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên của trường. * Hạn chế Một số buổi sinh hoạt chuyên môn khối thiếu sự dẫn dắt, giám sát của lãnh đạo nhà trường. Vẫn có giáo viên còn hạn chế về kiến thức, về kỹ năng sư phạm trong việc sử dụng các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học, công tác chủ nhiệm lớp, 2.3. Mặt mạnh - mặt yếu * Mặt mạnh Đề ra được các biện pháp thực hiện đúng với thực tế trình độ giáo viên, được đồng tình thống nhất cao của tập thể giáo viên, có sự hỗ trợ của đồng nghiệp có trình độ chuyên môn vững vàng cùng tham gia thực hiện, sinh hoạt chuyên môn định kì của các tổ chuyên môn, góp ý đánh giá các hoạt động chuyên môn của giáo viên. Chuyên môn nhà trường tích cực sinh hoạt chuyên môn định kỳ, tổ chuyên môn sinh hoạt thường xuyên và có hiệu quả áp dụng cao, trao đổi được nhiều kinh nghiệm hay với đồng nghiệp. * Mặt yếu Nội dung sinh hoạt chuyên môn ở các tổ chuyên môn chưa đa dạng, nhiều hình thức. Lãnh đạo trường tham gia sinh hoạt cùng với tổ chưa được thường xuyên. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Bản thân nhận thức được yêu cầu của giáo dục hiện nay, trong công tác quản lý chuyên môn. Tổ chức các hoạt động chuyên môn ( qua kiểm tra. dự giờ, ), qua thực thực tế tình hình giáo viên ở trường đã phân loại được trình độ chuyên môn của mỗi giáo viên, theo dõi ghi chép, đánh giá những tồn tại thường xuyên rút kinh nghiệm qua từng tháng, năm hoạt động, tổng hợp, phân loại những việc giáo viên cần bồi dưỡng để có ý tưởng viết nên đề tài này. Đa số đội ngũ giáo viên, nhân viên của trường rất tích cực, có ý thức trách nhiệm trong các hoạt động, trong việc bồi dưỡng chuyên môn. Tất cả giáo viên luôn ủng hộ các hoạt động chuyên môn trong trường được lãnh đạo trường đánh giá cao. Bên cạnh đó việc bồi dưỡng chuyên môn ở một số giáo viên còn hạn chế, bởi: Một số giáo viên tuổi cao nên khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế; Vẫn có giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề, điều kiện gia đình khó khăn nên còn nặng về việc chăm lo cho đời sống vật chất. Khả năng nhận thức của giáo viên không đồng đều; Ý thức tự giác của một số giáo viên chưa cao: chưa chịu khó rèn luyện và học hỏi kinh nghiệm, làm việc chưa đưa hết khả năng, 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Đội ngũ: số lượng và trình độ giáo viên Năm học T.số GV T.số CBQL Đảng viên Nữ Trình độ chuyên môn GV Đại học Cao đẳng Trung cấp Ghi chú 2014-2015 42 03 23 46 16 23 03 2015-2016 41 03 24 45 17 22 02 Đội ngũ giáo viên trong trường cơ bản đủ về số lượng và cơ cấu các bộ môn, 100% giáo viên có trình độ đạt chuẩn, trong đó giáo viên trên chuẩn đạt 95%. Đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn tương đối đồng đều, vững vàng nhiệt tình trong giảng dạy và các hoạt động khác của nhà trường, có đạo đức tốt, tác phong sư phạm nhà giáo chuẩn mực, chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hầu hết các đồng chí giáo viên đều nắm rõ mục tiêu của giáo dục tiểu học, gương mẫu, nhiệt tình trong các hoạt động giảng dạy. Trường có 19/41 giáo viên đã tham gia dự thi và đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện. Bên cạnh đó một bộ phận giáo viên có tuổi đời có thâm niên trong nghề nghiệp cao, là người dân tộc thiểu số tuy nhiệt tình trong công tác nhưng chậm trong việc đổi mới phương pháp dạy học, đáp ứng nhu cầu chưa cao . Nguyên nhân ảnh hưởng đến năng lực chuyên môn là: Một số giáo viên nữ, đang trong thời kỳ nuôi con nhỏ nên cũng hạn chế trong việc bồi dưỡng chuyên môn; nhiều giáo viên trong trường kinh tế còn khó khăn, chồng làm nông nghiệp lại phải nuôi các con ăn học. Mặt khác việc nâng cao ý thức học tự bồi dưỡng của mỗi cán bộ giáo viên còn hạn chế. Đây là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng chuyên môn trong nhà trường. Năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên trường Tiểu học Lê Hồng Phong đã đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí nhưng bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thời kỳ đổi mới toàn diện đồng bộ của ngành giáo dục thì đội ngũ cán bộ quản lý phải tìm ra những biện pháp thích hợp để bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu đặt ra hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong giai đoạn hiện nay lãnh đạo nhà trường đã quan tâm đến việc giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên thông qua các đợt học tập chính trị, Nghị quyết, nhà trường đã bồi dưỡng cho giáo viên nhận thức được vai trò trách nhiệm của người giáo viên trong giai đoạn mới. Ngoài ra, trường có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên ngay từ đầu năm học, thể hiện cụ thể trong việc xây dựng kế hoạch tháng, kỳ, năm. Nhà trường bố trí phân công hợp lý các giáo viên đi dự lớp chuyên đề do Sở và Phòng GD&ĐT cũng như Cụm chuyên môn tổ chức. Thường xuyên tổ chức hội giảng, thao giảng để trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và lựa chọn phương pháp giáo dục. Nhà trường đã thành lập các tổ tư vấn như: tư vấn đánh giá học sinh tiểu học theo TT30 của BGD; tổ tư vấn VNEN, tiếng Việt 1 CGD hoạt động thường xuyên và tư vấn kịp thời giúp GV điều chỉnh và rút kinh nghiệm, sửa sai kịp thời những thiếu sót và chưa phù hợp. Hơn nữa giáo viên phải tìm hiểu nghiên cứu dự giờ có thể dạy các khối lớp kế cận khi cần thiết phải điều động. Bên cạnh đó, nhà trường thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chuyên môn của giáo viên thông qua thời khoá biểu, kế hoạch giảng dạy, giáo án, dự giờ,để đánh giá việc thực hiện chuyên môn của giáo viên, kịp thời nhắc nhở, sửa chữa bổ sung những thiếu sót của giáo viên khi thực hiện quy chế chuyên môn hàng tuần, hàng tháng. Ban giám hiệu kiểm tra kế hoạch hoạt động của từng tổ chuyên môn, biên bản sinh hoạt tổ chuyên môn để có kế hoạch chỉ đạo phù hợp và nâng cao sinh hoạt tổ. Việc chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên được tiến hành theo kế hoạch cụ thể, chi tiết, khoa học có phân cấp quản lý chặt chẽ, phân công nhiệm vụ rõ ràng (đề cao vai trò của các tổ trưởng chuyên môn), thiết lập một cơ cấu quản lý đồng bộ thống nhất để phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm nhằm từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ chất lượng đội ngũ giáo viên. Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên. Nhận thức được công tác tự học tự bồi dưỡng là công việc thường xuyên liên tục của mỗi cán bộ giáo viên để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như các phẩm chất cấn thiết khác, nhà trường luôn tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ giáo viên có cơ hội đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học đúc rút kinh nghiệm của giáo viên. Ngay từ đầu năm Ban giám hiệu chỉ đạo cho giáo viên đăng ký tên đề tài, tên sáng kiến kinh nghiệm để giáo viên có kế hoạch tự nghiên cứu và hoàn thành SKKN vào cuối tháng 1. Nhà trường thành lập Hội đồng khoa học để giáo viên báo cáo sáng kiến kinh nghiệm của mình và tiến hành đánh giá phân loại sáng kiến kinh nghiệm. Chú trọng các sáng kiến kinh nghiệm hay đem vận dụng, nhân rộng cho giáo viên học tập và có phần thưởng xứng đáng cho sáng kiến kinh nghiệm có giá trị. Bên cạnh các việc làm trên nhà trường còn có kế hoạch giao cho các giáo viên có năng lực chuyên môn vững vàng điều chỉnh Hướng dẫn học và dạy các tiết mẫu để GV trao đổi chuyên môn nghiên cứu bài học và học hỏi chuyên môn, tổ chức thao giảng, hội giảng để giáo viên trong tổ học tập kinh nghịêm, tự đối chiếu với bản thân, rút ra những điểm mạnh cần phát huy, những điểm yếu cần khắc phục. Ban giám hiệu tạo mọi điều kiện để giáo viên tương trợ kèm cặp lẫn nhau về chuyên môn để cùng nhau tiến bộ tạo chất lượng đồng đều trong đội ngũ. Nhà trường đặt ra yêu cầu cao đối với giáo viên về tác phong làm việc, nghiên cứu khi học, tâm huyết với nghề, chủ động nghiên cứu nắm vững chương trình nội dung sách giáo khoa, Hướng dẫn học toàn cấp học, môn học mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học. Từ những việc làm trên đã giúp giáo viên ý thức được: Muốn tự khẳng định mình có uy tín thực của nhà giáo thì không có con đường nào khác là phải cố gắng tự học, tự bồi dưỡng của bản thân để nâng cao kiến thức, tay nghề. Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng chuyên môn đạt kết quả tốt, Ban giám hiệu nhà trường cần tìm ra biện pháp toàn diện tổng hợp, vừa cụ thể vừa thiết thực phù hợp với thực trạng đội ngũ nhà trường. Đây là một việc làm khó, đòi hỏi người lãnh đạo phải có đủ phẩm chất, năng lực và tâm huyết với nghề. Nếu không xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ sư phạm thành một tập thể sư phạm đủ về số lượng mạnh về chuyên môn, đồng đều về năng lực thì không thể nâng cao được chất lượng dạy và học. Điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết trên sách vở thành các hoạt động cụ thể, mang tính thường xuyên. Đó chính là biết và thành thạo công việc giảng dạy. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Công tác bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là công việc không bao giờ kết thúc. Mục đích của công tác này là nhằm đẩy mạnh sự phát triển về chuyên môn, nghiệp vụ cho tất cả giáo viên, cán bộ và nhân viên trong nhà trường giúp giáo viên có đủ năng lực tham gia vào việc nâng cao chất lượng dạy và học, vào công cuộc đổi mới giáo dục. Nâng cao sự hiểu biết về chính trị và các vấn đề về giáo dục nói chung, giúp cho đội ngũ giáo viên theo kịp và đáp ứng tốt các yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Đây chính là mục tiêu chính của công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. 3.2. Nội dung, biện pháp bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên ở trường. * Vai trò của cán bộ quản lý trong công tác bồi dưỡng giáo viên Cán bộ quản lý trước hết phải là tấm gương tiêu biểu về quá trình bồi dưỡng và tự bồi dưỡng. Quan trọng nhất là phải luôn khẳng định trình độ năng lực chuyên môn của mình trong tập thể sư phạm. Trong thực tế, chỉ có tự học mới có thể có điều kiện giúp chúng ta học tập được thường xuyên và suốt đời. Tự học là một cách tự bồi dưỡng, tự làm giàu kiến thức cho mình vừa đơn giản, tiết kiệm vừa hiệu quả. Vì vậy trách nhiệm của người quản lý giáo dục là phải suy nghĩ, tìm biện pháp để thổi lên ngọn lửa của phong trào tự học, tự bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên bằng nhiều hình thức: như tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi về kinh nghiệm tự học, giúp giáo viên định hướng việc tự học, tự bồi dưỡng. Xác định được những nội dung cần phải tự học, tự bồi dưỡng và cách tự học, tự bồi dưỡng như thế nào? Cung cấp cho giáo viên các thông tin, tài liệu, giới thiệu và hướng dẫn cách học các loại sách báo, tạp chí ở thư viện , phòng đọc, tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên thực hành việc tự học, tự bồi dưỡng. Bản thân mỗi đồng chí trong lãnh đạo trường phải vững vàng về chuyên môn, không ngừng tự nâng cao về chuyên môn, chịu đọc và chịu học hỏi anh chị em giáo viên. Một trong những nhiệm vụ của lãnh đạo trường là dự giờ của giáo viên và đánh giá tiết dạy. Nếu là những lời nhận xét xác đáng, giúp ích cho giáo viên rất nhiều và ngược lại nếu là những lời nhận xét chung chung, thậm chí sai về kiến thức cơ bản thì sự nhìn nhận của giáo viên đối với Ban giám hiệu sẽ giảm đi rất nhiều. Lãnh đạo trường đã coi việc xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mình, bởi nó không chỉ tạo nên những học sinh giỏi mà quan trọng hơn nhiều là nó nâng cao mặt bằng giáo viên cho tất cả các lớp trong trường. Có thể nói, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá giáo viên là sự tiến bộ về mọi mặt của học sinh do mình phụ trách “ Muốn có học sinh giỏi phải có thầy giáo giỏi”. Người cán bộ quản lý coi việc xem xét, đánh giá giáo viên theo chất lượng giảng dạy là biện pháp cốt lõi của công tác quản lý. * Bồi dưỡng, nâng cao tư tưởng, nhận thức chính trị cho đội ngũ giáo viên. Giáo dục lý tưởng gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất nghề nghiệp cho cán bộ giáo viên. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cán bộ, giáo viên được tiếp xúc với các phương tiện thông tin báo chí, phổ biến những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và chính sách địa phương qua học tập chính trị đầu năm học, trong năm học. Tổ chức học tập, quán triệt các văn bản, chỉ đạo đổi mới giáo dục phổ thông của nhà nước, của ngành trong năm học, để đưa vào kế hoạch thực hiện của cá nhân, tổ chuyên môn vào các nội dung thi như thi giáo viên dạy giỏi, các buổi sinh hoạt. Ngoài ra còn hướng cho giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền vận động mọi lực lượng tham gia thực hiện đổi mới giáo dục. Năm học 2014-2015 nhà trường tiếp tục thực hiện dự án VNEN do vậy qua 2 năm thực hiện toàn bộ cán bộ quản lý và giáo viên đều nhận thấy khi thực hiện Mô hình trường học mới Việt Nam, nội dung chương trình các lớp không có sự thay đổi mà chỉ là sự thay đổi về phương pháp dạy học, cách học của trò và cách tổ chức lớp học của thầy nên nhà trường đã tập trung bồi dưỡng đội ngũ về Tổ chức lớp học và phương pháp dạy học các môn học. Các đợt tập huấn từ Tỉnh đến thành phố nhà trường đều tham gia và số lượng cán bộ, giáo viên tham gia đều vượt quá so với quy định. Khi đã nắm bắt được nội dung, tinh thần đổi mới nhà trường triển khai, mở ngay hội thảo, chuyên đề cấp trường. Đã có nhiều hội thảo, chuyên đề mà thông qua việc tổ chức đã nâng cao tay nghề chuyên môn cho cán bộ quản lý, giáo viên nhà trường như: Hội thảo về Kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực cho Hội đồng tự quản, nhóm trưởng; Kinh nghiệm trong việc huy động cộng đồng và cha mẹ HS tham gia vào Mô hình trường học mới. Rồi các chuyên đề về phương pháp tổ chức dạy học các môn như: Luân phiên nhóm trưởng trong tổ chức lớp học VNEN ; Dạy học theo Mô hình VNEN có sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”; Điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học để phát huy tính tích cực của học sinh; Cách kiểm soát chất lượng;... Hội thảo tổ chức cấp trường đều có kế hoạch, có sự chuẩn bị kỹ về nội dung, hình thức nên cán bộ, quản lý và giáo viên nhiệt tình chia sẻ kinh nghiệm hay. Chính từ việc chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân mà những điển hình đã được nhân rộng ngay trong trường. Những giáo viên ngày đầu còn bỡ ngỡ khi thao tác về tổ chức lớp học thì nay đã đủ tự tin để chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp ở các trường bạn. Khi tổ chức chuyên đề bồi dưỡng giáo viên, nhà trường chú ý kết hợp với tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học. Các chuyên đề được chuẩn bị rất kỹ từ việc xây dựng kế hoạch đến việc tổ chức thực hiện gồm: cử GV dạy thực hành, những người dự cùng suy ngẫm, thảo luận, chia sẻ Chính từ các chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn cán bộ quản lý và giáo viên đã được nâng cao năng lực sư phạm, khuyến khích cá nhân tự học và sáng tạo vì quyền lợi đích thực của học sinh. * Chỉ đạo sinh hoạt tổ chuyên môn để nâng cao chất lượng giảng dạy Để nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn, những cán bộ quản lý phải xây dựng một nề nếp sinh hoạt cụ thể. Ở trường tôi, lãnh đạo trường quy định tổ chuyên môn sinh hoạt: 2 tuần/lần, lãnh đạo nhà trường thay phiên sinh hoạt chuyên môn với các khối để trực tiếp trao đổi, thảo luận và chỉ đạo kịp thời những vấn đề còn thiếu sót, khó khăn. Mỗi tháng Ban giám hiệu thống nhất trước với các tổ trưởng chuyên môn để phổ biến những nội dung cơ bản của buổi họp tổ. Ví dụ 1: Sinh hoạt chuyên môn về phương pháp dạy học: Chúng tôi quan tâm đến những vấn đề cụ thể mà giáo viên quan tâm, vướng mắc, khó khăn cần được chia sẻ, hỗ trợ trong hoạt động dạy học. Chính vì vậy ngay từ đầu năm chúng tôi đã xây dựng những tiết dạy chuyên đề, phân công giáo viên dạy minh họa. Với Mô hình Trường học mới, việc dự giờ của giáo viên cũng có nhiều thay đổi, giáo viên dự giờ không ngồi yên một chỗ, không chăm chăm quan sát người dạy mà quan sát chủ yếu là các hoạt động học tập và thái độ của HS, quan sát cách làm việc của Hội đồng tự quản lớp học và đội ngũ trưởng nhóm học tập, quan sát xem HS có tham gia hoạt động tích cực, có say sưa hứng thú với bài học hay không và sự hỗ trợ của giáo viên đối với HS xem có kịp thời hay không,... Trong quá trình dự giờ người dự có thể ghi hình toàn bộ dễn biến của tiết dạy bằng máy quay hoặc điện thoại. Đây chính là hình thức dự giờ theo VNEN và cũng chính là một trong những hình thức đổi mới của sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học. Ví dụ 2: Sinh hoạt chuyên môn qua việc làm đồ dùng dạy học: Dạy học theo tài liệu 3 trong 1 của Dự án, giáo viên đã không còn phải vất vả soạn bài như trước, tuy nhiên để có những tiết học thực sự hiệu quả thì mỗi giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài học và chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học trong các hoạt động sinh hoạt tổ chuyên môn chúng tôi đã tổ chức cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và làm đồ dùng dạy học. Qua các buổi sinh hoạt đó tạo đều kiện cho giáo viên được thỏa sức sáng tạo cùng nhau thiết kế những bộ đồ dùng có thể sử dụng chung cho các lớp trong khối. Ví dụ 3: Sinh hoạt chuyên môn về nội dung phụ huynh và cộng đồng tham gia vào giáo dục. Mô hình trường học mới xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, tương tác giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Qua những nội dung chia sẻ trong sinh hoạt tổ chuyên môn đã giúp mỗi giáo viên lựa chọn cho mình các thức tuyên truyền tới phụ huynh và cộng đồng sao cho hiệu quả. Các đồng chí giáo viên thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn sẽ bàn bạc với nhau việc thực hiện chương trình, việc giảng dạy những bài khó, cách sử dụng đồ dùng dạy học sao cho hiệu quả nhất. Chính vì thế, từ nhiều năm nay, chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn đã được nâng cao rõ rệt. Khi các tổ sinh hoạt chuyên môn lãnh đạo trường phân công người trực tiếp dự các buổi sinh hoạt hoặc kiểm tra buổi sinh hoạt thông qua sổ ghi chép của khối. Đặc biệt là các buổi sinh hoạt chuyên môn không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tiến độ chương trình, trao đổi bài dạy khó, mà các đồng chí giáo viên còn trao đổi với nhau cách hướng dẫn học sinh giải các bài văn hay, toán khó theo cách cách ngắn gọn, phù hợp với đặc điểm học sinh của trường.. Ban giám hiệu cần chọn người tổ trưởng chuyên môn là người giỏi về chuyên môn, có uy tín với đồng nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và có khả năng lãnh đạo tổ của mình. Những vấn đề gì ngoài khả năng giải quyết của tổ, tổ trưởng sẽ kiến nghị với Ban giám hiệu để tìm biện pháp giải quyết kịp thời. * Thực hiện có hiệu quả kế hoạch thăm lớp, dự giờ và tổ chức tốt hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường hàng năm. Thực tế cho thấy, do trình độ của giáo viên không đồng đều nên việc giảng dạy không đề
Tài liệu đính kèm: