Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ học tốt khám phá khoa học tại lớp lá 1 trường mầm non Krông Ana

Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ học tốt khám phá khoa học tại lớp lá 1 trường mầm non Krông Ana

Tôi dùng một lọ nước hoa xịt nước hoa vào 1 trẻ cho các bạn trong lớp

nhận xét bạn đó rất thơm hỏi cháu: Các con có nhìn thấy gì không mà sao thơm thế? Tôi nói cho cháu biết có nhiều thứ tồn tại mà không nhìn thấy bằng mắt.

Cho cháu làm thí nghiệm cùng nhau như: Xịt nước hoa vào tay bạn A rồi cho cháu ngửi và nhận xét tay bạn A thơm – Cho lớp ngửi tay bạn B không xịt nước hoa và nhận xét tay bạn B không thơm - sau đó cho 2 cháu bắt tay nhau một lúc rồi lại cho lớp ngửi tay 2 bạn và các cháu phát hiện ra tay bạn B bây giờ đã thơm như tay bạn A, Tôi nói cho cháu biết con vi khuẩn cũng nhỏ như mùi nước hoa và đặt câu hỏi: Các con có nhìn thấy con vi khuẩn của bệnh tay, chân, miệng và đặt câu hỏi: Các con có nhìn thấy con vi khuẩn của bệnh tay, chân, miệng không. Qua đó tôi cho cháu biết tay, chân, miệng lây qua các đường giao tiếp như: Nếu người bị bệnh cầm đồ chơi thì con vi khuẩn của bệnh sẽ bám vào đồ chơi đó . Đồ chơi đó mà không được rửa sạch bằng xà bông hoặc không được sát trùng thì khi người khác cầm vào đó con vi trùng sẽ bám vào tay và người lành lại lây bệnh. Bệnh còn lây qua đường hô hấp trong khi nói chuyện với nhau và dạy cháu phòng bệnh bằng cách thường xuyên rửa tay bằng xà phòng. Thường xuyên tự vệ sinh đồ chơi trong lớp và ở nhà sẽ phòng tránh được bệnh chân, tay, miệng

Thường xuyên trò chuyện và dạy cho trẻ cách quan sát, khám phá sự vật một cách khoa học và logic, rèn cho trẻ khả năng đặt câu hỏi và tìm ra câu trả lời. Ví dụ: Khi dạo chơi trong sân tôi luôn khơi gợi cho trẻ sự tò mò từ những trái bàng, hạt phượng hay những tia nằng chiếu qua từ khe lá. Trẻ hỏi tại sao lại thế? Sao bàng cũng là trái cây mà cháu không ăn được? Tôi luôn cho trẻ tự tìm hiểu rồi tự trả lời cho nhau nghe sau đó tôi sẽ rút ra điều đúng mà trẻ dễ hiểu.

 

doc 22 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1533Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ học tốt khám phá khoa học tại lớp lá 1 trường mầm non Krông Ana", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển thể chất, thẩm mỹ đạo đức và lao động cho trẻ.
- Để giúp trẻ làm tốt vai trò chủ thể của quá trình khám phá thế giới xung quanh giáo viên cần quan tâm đến nhu cầu, hứng thú của trẻ tận dụng các biện pháp, các cơ hội trong cuộc sống cho trẻ được khám phá sự vật hiện tượng xung quanh chúng cho trẻ được trải nghiệm cảm xúc, tích lũy kinh nghiệm để đi đến hiểu biết bản chất của sự vật hiện tượng và có kỹ năng sống phù hợp. 
Bởi vì trước hết trẻ sẽ phát triển ý thức về sự tôn trọng và quan tâm đến môi trường sống ngay từ khi còn nhỏ. Thứ hai, sự tác động tích cực đối với môi trường tự nhiên cũng là một phần quan trọng cho sự phát triển sức khỏe của trẻ. Và sự tác động qua lại này cũng nâng cao khả năng học hỏi của trẻ. Trẻ được sống gần gũi với thiên nhiên, điều đó sẽ tuyệt vời hơn nhiều sách vở, từ ngữ.
 	Thực hiện mục tiêu “Hướng vào trẻ, trẻ là trung tâm”, mọi hoạt động đều hướng vào trẻ và trẻ hoạt động tích cực giáo viên chỉ giữ vai trò “trung gian”. Bản thân tôi là giáo viên mầm non trực tiếp giáo dục chăm sóc trẻ luôn tìm hiểu, nghiên cứu và đã tìm ra một số biện pháp giúp trẻ khám phá khoa học.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
 	Trường Mầm non Krông Ana có sân rộng rãi, xung quanh đều có cây, hoa, có vườn rau. Trẻ năng động tham gia hoạt động tích cực, phụ huynh quan tâm đến con em, trẻ cùng một lứa tuổi thuận lợi cho việc áp dụng đề tài.
 	Trang thiết bị và một số dụng cụ khoa học của trường còn hạn chế như (Kính lúp, máy ảnh,... ).
- Số trẻ hăng say khám phá khoa học ngày một nhiều hơn chiếm hơn 80% số trẻ trong lớp. 
- Khả năng phân tích tổng hợp của các cháu ngày một tiến bộ. 
- Khả năng phân nhóm phân loại tốt. 
- Cháu rất hăng say với hoạt động thực hành nhận thức ngày càng phát triển. 
- Kỹ năng sống của trẻ ngày càng tiến bộ. 
- Cháu biết phân biệt cái đúng cái sai và có những hành vi ứng xử phù hợp với yêu cầu xã hội.
- Trong lớp có một số học sinh lần đầu đi học 
- Một số phụ huỳnh chưa thật sự chưa quan tâm đến giáo dục mầm non
- Trình độ của trẻ không đồng đều. Một số trẻ vẫn còn nhút nhát, ham chơi chưa chú ý khi cô dạy nên kết quả chưa cao 
- Trong lớp có một số trẻ có kĩ năng khám phá rất tốt
- Với điều kiện hai cô một lớp nên việc chuẫn bị cho dạy dỗ đạt kết quả cao
- Trong lớp có một số trẻ chưa có điều kiện học qua lớp mẫu giáo bé
- Khẳ năng khám phá khoa học của một số trẻ còn nhiều hạn chế .
Nguyên nhân thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài này là vì sự trăn trở của bản thân trong suốt những năm dạy học. 
- Tôi nhận thấy sự chênh lệch giữa học sinh miền núi và miền xuôi, giữa học sinh thành phố và nông thôn về nhận thức và tiếp cận thế giới xung quanh. 
- Về kỹ năng sống và khả năng giao tiếp tất cả mọi mặt đều chênh lệch thế tại sao ta không tìm ra biện pháp mới để đẩy lùi khoảng cách đó.
- Đây là đề tài nhằm phát triển một cách toàn diện cho trẻ 
- Đề tài phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nên trẻ rất thích thú
 - Tôi được phân công dạy ở lớp mà 100% trẻ đã học ở các lớp dưới nên trẻ đã có nề nếp học tập và rất nhanh nhẹn.
 - Cháu đến lớp chuyên cần.
 - Giảng dạy nhiều năm và thường xuyên quan tâm đến trẻ nên bản thân cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc nắm bắt tâm sinh lý tuổi.
 - Được sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh lớp lá 1, nên tôi vận dụng tìm ra nhiều biện pháp mới cũng thuận lợi hơn.
 - Số trẻ đông, một số cháu thể lực yếu nên tiếp thu chậm hơn so với các bạn.
 - Gia đình một số học sinh còn khó khăn nên không có điệu kiện cho cháu tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên dẫn đến khả năng tiếp xúc với môi trường xã hội còn hạn chế.
 - Cụ thể thực trạng khi chưa vận dụng biện pháp mới tôi đã thống kê bằng bảng sau:
 + Bảng khảo sát chất lượng trước lúc thực hiện biện pháp mới.
Với số trẻ : 35 cháu
stt
Nội dung
Kết quả
Tốt - khá
TB
Yếu
1
Kỹ năng quan sát, tìm ra đặc điểm và trả lời được tên gọi đặc điểm của các đối tượng khám phá 
30 cháu
86%
4 cháu
11%
1cháu
3%
2
Khả năng so sánh, phân loại các đối
 tượng khám phá
23 cháu
66%
10 cháu
28%
2 cháu
6%
3
Phát hiện cái mới lạ và có thái độ hành động phù hợp 
24 cháu
68%
6 cháu
18%
5 cháu
14%
4
Có kỹ năng sống và khả năng giao tiếp tốt 
23 cháu
66%
8 cháu
23%
4 cháu
11%
 Từ kết quả như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để tiết dạy KPKH đạt hiệu quả cao hơn. Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm ra một số biện pháp sau:
3. Nội dung và hình thức của giải pháp 
a. Mục tiêu của giải pháp
Giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và chính xác, không mang tính trừu tượng và khô khan.
Phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần.
Hòa mình vào với thiên nhiên trẻ được hít thở không khí trong lành, vận động thoải mái giúp phát triển khả năng quan sát, ghi nhớ, chú ý.
Phát triển khả năng định hướng trong không gian. 5 mặt đều được phát triển
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Biện pháp 1: Tạo môi trường giúp trẻ khám phá khoa học.
Ở tuổi trẻ thơ chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng, với trẻ thì những gì mới lạ đẹp mắt hấp dẫn là gây được sự chú ý của trẻ. Nhưng trong môn học này không phải cứ đưa trẻ đi ra ngoài và cho trẻ tự do khám phá là có hiệu quả. Bản thân tôi phải tìm những địa điểm, đề tài phù hợp với khả năng của trẻ, phù hợp với vốn hiểu biết của trẻ và gần gũi với trẻ. Cho trẻ quan sát 1-2 đối tượng tùy vào khả năng của trẻ, cho trẻ làm quen với những sự vật hiện tượng đơn giản và dễ hiểu ví dụ: Quan sát mưa để trẻ biết được vì sao có mưa,...cũng có thể là một góc lớp tôi chuẩn bị một luống rau và cho trẻ tìm hiểu sự lớn lên của cây rau hàng ngày. Góc học tập cho trẻ xem hình ảnh, vẽ, nặn những gì mà trẻ đã học được, dạy cho trẻ cách làm một cơn mưa từ những li nước...Góc xây dựng cho trẻ xây vườn trường, sở thú,... Để từ đó trẻ có thể nhớ lại kiến thức hay làm tăng tính tò mò của trẻ, giúp trẻ có hứng thú trong buổi học ngoài trời hơn.
Đó là tạo môi trường trong lớp học, còn việc đưa trẻ ra với thiên nhiên ngoài tác dụng giúp trẻ khám phá môi trường có hiệu quả còn có một số tác dụng: Ra ngoài trời trẻ được tắm nắng, hít thở không khí trong lành, thoáng mát, được vận động trong điều kiện rộng rãi, thoải mái, làm tăng sự hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, tăng sự trao đổi chất, rèn luyện sự thích nghi với tác động của các yếu tố tự nhiên, tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Giúp trẻ mở rộng thêm tầm hiểu biết về sự vật hiện tượng xung quanh, làm giàu xúc cảm thẩm mỹ, trẻ được mở rộng diện tiếp xúc, được trực tiếp quan sát tiếp xúc các sự vật hiện tượng sống động trước mắt làm phong phú vốn biểu tượng và giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của môi trường xung quanh. Tạo điều kiện để trẻ vận dụng những hiểu biết, kiến thức, kỹ năng đã học và hoàn cảnh thực tiễn. Vì vậy việc lựa chon môi trường sao cho phù hợp với trẻ là rất quan trọng.
Tôi luôn tìm chọn những địa điểm thực sự gần gũi và gây hứng thú với trẻ dựa trên thực tế mà trường mình có (sân trường, gốc bàng, vườn hoa, vườn rau, bể nước,) Trên cơ sở đó tôi biến những điều không có thành có bằng cách khi cho trẻ ra dạo chơi tôi bí mật giấu một đồ vật mà tôi muốn trẻ tìm hiểu rồi tạo tình huống cho trẻ thấy. Khi đó trẻ sẽ tò mò và cùng xúm xít lại tìm hiểu đặt câu hỏi, như vậy tự nhiên tôi đã có một môi trường học tập thật sự gây hứng thú cho trẻ.
Biện pháp 2: Thường xuyên trau dồi sự hiểu biết của trẻ. Kích thích trí tò mò của trẻ.
Thật vậy, bất kỳ làm một việc gì, tìm hiểu hay khám phá một điều gì trong mỗi chúng ta đều phải có một ít hiểu biết nhất định về điều đó để có thể đặt ra câu hỏi “tại sao”,... và tìm cách giải quyết chúng. Trẻ nhỏ cũng vậy, chúng ta thường quan niệm trẻ nhỏ giống như tờ giấy trắng và chúng ta muốn vẽ gì lên đó cũng được, đó là quan niệm hoàn toàn không chính xác, trẻ cũng có cách nghĩ riêng của trẻ có điều khả năng thu thập thông tin của trẻ còn hạn chế và khả năng phân tích tổng hợp của trẻ hầu như chưa chính xác vì vậy trẻ gặp khó khăn trong bất cứ vấn đề nào trẻ muốn tìm hiểu. 
 Việc đưa trẻ vào với môi trường xung quanh hay nói rõ hơn là trẻ khám phá khoa học, điều đầu tiên mà tôi quan tâm là lượng kiến thức của trẻ có thực sự phù hợp cho chuyến đi “dã ngoại” này hay không. Hơn nữa, nếu trẻ đã có lượng kiến thức nhất định rồi thì việc khám phá sẽ dễ dàng hơn và có ý nghĩa, hiệu quả hơn rất nhiều bên cạnh đó phát triển được tư duy cho trẻ. 
 Căn cứ vào những điều trên nên tôi chọn biện pháp thường xuyên trau dồi sự hiểu biết của trẻ, kích thích tính tò mò của trẻ là vấn đề mấu chốt trong đề tài này. Trẻ đến lớp được cô giáo truyền đạt kiến thức ở mọi lúc mọi nơi, Bản thân tôi khi lên lớp luôn cố gắng thu thập những điều mới lạ đối với trẻ từ đó tạo cho trẻ có sự quan tâm và muốn tìm hiểu, ví dụ: Từ một cái hạt nhỏ tôi dạy cho trẻ biết quá trình từ hạt nảy mầm rồi lớn thành cây như thế nào? Vì sao lại có mưa?.... Thường xuyên trò chuyện về điều mà trẻ gặp ở nhà, trên đường đi học,... Đặt ra cho trẻ những câu hỏi “tại sao? Làm sao con biết?...” nhằm kích thích sự tò mò của trẻ, đôi khi tôi cho trẻ làm quen với một vật để trẻ tự nói lên điều trẻ thấy và nghĩ. Tôi chuẩn bị một số đồ dùng khi lên lớp theo từng chủ điểm để trẻ tìm hiểu ví dụ: quả cam trẻ đã biết thì tôi có thể nói cho trẻ biết về cây của nó, sự phát triển,...
* Thí nghiệm 1 : Trứng chìm – Trứng nổi.
 Đổ muối vào hai ly nước thủy tinh như nhau , một ly tôi dán số 1 và ly kia dán số 2. lượng nước hai ly bằng nhau, riêng lượng muối thì khác nhau, ly số 1 tôi bỏ 1 thìa muối. ly số 2 tôi bỏ vào 3 thìa muối khuấy đều Trẻ thực hiện: bỏ trứng vào hai ly nước 
Kết quả: Ly 1 Trứng chìm, ly 2 Trứng nổi
- Cho cháu tìm ra nguyên nhân. Thử ly nước 2 sao thấy mặn quá, thử ly nước 1 không mặn bằng hoặc bạn đổ vào ly 1 bao nhiêu muỗng muối, đổ vào ly 2 bao nhiêu muỗng muối 
Từ đó cháu suy ra: Vì ly 1 ít muối nên trứng không thể nổi lên được. Muốn trứng nổi lên phải làm gì? (Cháu thỏa thuận với nhóm là phải thêm muối vào ly 1) 
Cô giải thích thêm cho cháu biết muối tan trong nước nhưng vì muối mặn nên muối chìm xuống dưới và đẩy quả trứng nổi lên. 
- Vậy trứng ở trong nước muối có nổi được không? Trứng còn nổi được ở đâu nữa không? 
Trong giờ đón, trả trẻ vận động phụ huynh sưu tầm đồ dùng phục vụ học tập cho trẻ, tuyên truyền lợi ích của việc đưa trẻ vào thiên nhiên ví dụ: trên đường đi học có những điều trẻ chưa biết hoặc rất quan tâm phụ huynh có thể dừng lại để đáp ứng nhu cầu muốn khám phá của con mình.
* Thí nghiệm 2: Dạy trẻ cách phòng tránh bệnh “ Tay, chân, miệng” 
Cho cháu xem các hình ảnh về bệnh tay, chân, miệng và giải thích cho cháu biết chân tay miệng là bệnh rất dễ lây truyền. Tôi cũng cho cháu biết con vi trùng lây bệnh rất nhỏ bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Đồng thời làm một thí nghiệm cho trẻ xem:
Tôi dùng một lọ nước hoa xịt nước hoa vào 1 trẻ cho các bạn trong lớp 
nhận xét bạn đó rất thơm hỏi cháu: Các con có nhìn thấy gì không mà sao thơm thế? Tôi nói cho cháu biết có nhiều thứ tồn tại mà không nhìn thấy bằng mắt. 
Cho cháu làm thí nghiệm cùng nhau như: Xịt nước hoa vào tay bạn A rồi cho cháu ngửi và nhận xét tay bạn A thơm – Cho lớp ngửi tay bạn B không xịt nước hoa và nhận xét tay bạn B không thơm - sau đó cho 2 cháu bắt tay nhau một lúc rồi lại cho lớp ngửi tay 2 bạn và các cháu phát hiện ra tay bạn B bây giờ đã thơm như tay bạn A, Tôi nói cho cháu biết con vi khuẩn cũng nhỏ như mùi nước hoa và đặt câu hỏi: Các con có nhìn thấy con vi khuẩn của bệnh tay, chân, miệng và đặt câu hỏi: Các con có nhìn thấy con vi khuẩn của bệnh tay, chân, miệng không. Qua đó tôi cho cháu biết tay, chân, miệng lây qua các đường giao tiếp như: Nếu người bị bệnh cầm đồ chơi thì con vi khuẩn của bệnh sẽ bám vào đồ chơi đó . Đồ chơi đó mà không được rửa sạch bằng xà bông hoặc không được sát trùng thì khi người khác cầm vào đó con vi trùng sẽ bám vào tay và người lành lại lây bệnh. Bệnh còn lây qua đường hô hấp trong khi nói chuyện với nhau và dạy cháu phòng bệnh bằng cách thường xuyên rửa tay bằng xà phòng. Thường xuyên tự vệ sinh đồ chơi trong lớp và ở nhà sẽ phòng tránh được bệnh chân, tay, miệng
Thường xuyên trò chuyện và dạy cho trẻ cách quan sát, khám phá sự vật một cách khoa học và logic, rèn cho trẻ khả năng đặt câu hỏi và tìm ra câu trả lời. Ví dụ: Khi dạo chơi trong sân tôi luôn khơi gợi cho trẻ sự tò mò từ những trái bàng, hạt phượng hay những tia nằng chiếu qua từ khe lá. Trẻ hỏi tại sao lại thế? Sao bàng cũng là trái cây mà cháu không ăn được?Tôi luôn cho trẻ tự tìm hiểu rồi tự trả lời cho nhau nghe sau đó tôi sẽ rút ra điều đúng mà trẻ dễ hiểu.
Biện pháp 3: Cách hướng dẫn của giáo viên cho trẻ khám phá.
Hướng dẫn cụ thể: Các giải pháp dạy và học đòi hỏi sự cân bằng giữa các yếu tố: Khám phá: trẻ được lựa chọn theo ý thích, giáo viên quan sát, lắng nghe và đặt các câu hỏi (để hỗ trợ). Các hướng dẫn mang tính dẫn dắt, gợi ý của giáo viên: Việc học của trẻ là dựa trên kế hoạch được chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn thận của các giáo viên. Hướng dẫn cụ thể: Giáo viên chỉ rõ từng bước, mở rộng một ý tưởng cụ thể theo một hướng nhất đinh để trẻ thể hiện được từng kỹ năng cụ thể của mình.
Buổi dạo chơi trong thiên nhiên sẽ tuyệt vời hơn khi cô cùng trẻ vẽ những chiếc lá rụng hay những chồi cây non. Nếu khi qua vườn hoa trẻ muốn hái vài bông hãy nói với trẻ những bông hoa cần ở trên cành để mọi người cùng thưởng
thức và nếu trẻ muốn có những bông hoa đó hãy dạy trẻ cách vẽ ra giấy. Đó là 
cách giáo dục hiệu quả nhất mà tôi nghĩ không có trẻ nào không nghe lời.
Để giúp trẻ chú ý và thú vị hơn với cuộc khám phá thiên nhiên tôi cần cho trẻ quan sát và đặt ra những câu hỏi như: “Con thấy cái cây kia thế nào? Con có biết con vật gì sống trên cây cao không?”  Cứ như vậy dẫn dắt cho cuộc chuyện trò trở nên sôi nổi và hào hứng. Một số tiết dạy ngoài trời với cuộc dạo chơi trong khung cảnh thiên nhiên cũng có thể cho trẻ một cơ hội tuyệt vời để các giác quan thêm nhạy bén. 
Trẻ sẽ hỏi về tiếng chim kêu, tiếng gió thổi và mong muốn bắt chước các âm thanh trong tự nhiên đó. Hãy để cho trẻ ngửi hương thơm của các loài hoa, so sánh hương thơm của chúng với nhau, và khám phá các loài cỏ dại, tôi yêu cầu trẻ chạm tay vào vỏ cây xù xì thô ráp hoặc những hòn đá cuội nhám ven bể cá. Khuyến khích trẻ khám phá các vật này bằng tay để có thêm cảm giác mới và sự hiểu biết sâu hơn về thiên nhiên. Chỉ cho trẻ thấy thế giới của các loại côn trùng trên lá, trên mặt đất. 
Biện pháp 4: Lồng ghép tích hợp các môn học khác.
* Phát triển thể chất: trẻ được rèn luyện các nhóm cơ, hít thở không khí trong lành và thay đổi trạng thái vận động.
* Phát triển nhận thức: trẻ biết về các hiện tượng và môi trương xung quanh, phân biệt được các sự vật hiện tượng, đặc điểm rõ nét và đa dạng.
* Phát triển ngôn ngữ: Trẻ nói được rất nhiều và phát triển hơn so với yêu cầu, giải thích được những câu hỏi tại sao? Như thế nào rõ ràng.
* Phát triển cảm xúc, tình cảm xã hội: Trẻ vui, tò mò, thích thú, thoải mái cười nói, phát sinh tình yêu sự tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên, sự vật xung quanh.
* Phát triển thẩm mỹ: Trẻ hình dung và vẽ, nặn thông qua các buổi học ngoài trời, vận động minh họa sinh động đa dạng qua các bài hát.
 	Học tập tích hợp: Các lĩnh vực học tập đều liên quan đến nhau và đều hợp lý hiệu quả khi đưa ra môi trường bên ngoài. Giáo dục thể chất, hoạt động tạo hình, giáo dục âm nhạc, làm quen với toán, khám phá khoa học, làm quen với văn học, làm quen chữ cái, hoạt động vui chơi, Trẻ nhỏ nhìn nhận về thế giới, về môi trường xung quanh mình theo một góc độ tổng thể. Chúng học từ mọi thứ xảy ra xung quanh mình và không phân tách theo từng môn/ từng lĩnh vực khác nhau. Chính vì thế, việc tổ chức cho trẻ học cần phải được thực hiện tích hợp trong một tổng thể chung. Thông qua những hoạt động tích hợp đó trẻ sẽ hiểu kiến thức và kỹ năng liên quan đến nhau như thế nào. Hoạt động học của lĩnh vực này sẽ được lồng ghép hoặc chuyển sang hoạt động học của lĩnh vực khác một cách tự nhiên nhưng không vì thế mà tôi lạm dụng quá với môi trường bên ngoài vào các hoạt động của trẻ.
Ví dụ: Môn giáo dục thể chất - Chủ điểm thế giới thực vật – Đề tài: Bước qua chướng ngại vật. nếu bình thường chúng ta tổ chức hoạt động bằng cách làm đồ dùng là chiếc ghế hay một quả bóng thì ở đây khi tôi đưa trẻ ra sân trường tổ chức tôi có thể cho trẻ bước qua một cái rễ của cây bàng mọc lồi trên sân hoặc một nhành hoa giấy đang cố gắng bò xuống đất để vươn qua hành lang lớp. Nhờ đó tôi vừa tạo cho trẻ cảm giác thú vị khi học mà như đang đi chơi rồi nhẹ nhàng tôi giáo dục trẻ không giẫm lên hoa và rễ cây làm cây bị thương, giúp trẻ yêu và biết bảo vệ thiên nhiên.
Môn hoạt động tạo hình – Chủ điểm thế giới thực vật – đề tài vẽ theo ý thích. Đưa trẻ ra với thiên nhiên tôi sẽ khong phải mất thời gian làm đồ dùng dạy học mà trên thực tế trẻ thấy gì sẽ vẽ đó, có thể trẻ sẽ thấy và vẽ những chiếc lá không giống với chiếc lá mà cô dạy về màu sắc, hình dạng và vô tình trẻ đã trao dồi thêm vốn hiểu biết của mình về sự đa dạng của sự vật. Ra ngoài sẽ phát triển được khả năng tập trung cao của trẻ về 1 đối tượng, phát triển khả năng định hướng trong không gian. (có một số ý kiến cho rằng ra ngoài không gian loãng làm giảm sự tập trung của trẻ, nhưng theo tôi và kết quả mà trẻ đạt được thì trẻ tập trung hay không đều phụ thuộc vào môi trường mà cô đã chọn và sự thu hút của cô ở trẻ).
Bên cạnh đó trẻ hình thành những hiểu biết của mình thông qua sự tương tác tích cực với các giáo viên, các bạn trong lớp, các tài liệu, các sự kiện được tổ chức. Trẻ học hiệu quả nhất khi được tích cực tham gia vào các hoạt động mà chúng thấy thú vị. Các hoạt động của trẻ nên dựa trên sự tò mò, nhu cầu, và sở thích của chúng. Chính vì thế, việc học tập của trẻ cần được nhấn mạnh vào quá trình trẻ nhận biết, hiểu, và hình thành các ý kiến của riêng mình thay vì việc trẻ phải hoàn thành những bài tập có sẵn và lặp đi lặp lại. Giáo viên đóng vai trò là người tạo điều kiện để đảm bảo rằng, trong quá trình học, trẻ được quan sát, được đưa ra các câu hỏi, được khám phá, và được tự trải nghiệm.
Tổ chức các môn học lồng vào môi trường thiên nhiên là một phần quan trọng trong quá trình học của trẻ, là chất xúc tác để trẻ học, để thúc đẩy trẻ khám phá, tìm tòi, mạo hiểm, mắc sai lầm và đối phó với thất bại. Học qua chơi sẽ giúp trẻ tham gia vào việc tổ chức, đưa ra quyết định lựa chọn, thực hành, duy trì và bày tỏ cảm xúc. Chơi có tổ chức sẽ giúp phát triển và mở rộng sức sáng tạo, các kỹ năng nghe và nói, các kỹ năng xã hội và tính cách, khả năng sử dụng ngôn ngữ đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực như toán, môi trường. Một lần nữa, các cô giáo chính là người tạo điều kiện để trẻ chơi như là một phần của quá trình học của mình. 
Học qua công nghệ thông tin: Nên tạo cho trẻ có cơ hội để làm quen, ứng dụng và phát triển các khả năng về công nghệ thông tin thông qua việc sử dụng các công cụ tin học trong quá trình học tập. Từ đây, trẻ có cơ hội để hỗ trợ các công việc của mình bằng cách tự tìm kiếm thông tin, được học cách sử dụng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, tự lựa chọn và tổng hợp các thông tin để đáp ứng nhu cầu của mình. Công nghệ thông tin có thể được sử dụng và ứng dụng như là công cụ hướng dẫn và công cụ thúc đẩy, kích thích quá trình học của trẻ. Thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, trẻ sẽ được khám phá các ý tưởng, khái niệm, câu hỏi khác nhau. Thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, trẻ sẽ được tương tác với chữ viết, với những âm thanh, hình ảnh sống động. Các hoạt động sử dụng máy tính và phần mềm luôn được gắn với phần hướng dẫn của giáo viên trên lớp cũng như gắn với thế mạnh và nhu cầu của trẻ. 
Được khám phá là để trẻ hình thành tính độc lập tư duy, tìm tòi, sáng tạo và quyết đoán trong việc giải quyết những tình huống được khám phá cụ thể. Trẻ được tham gia và phát triển niềm say mê, hứng thú một cách tích cực với nhiều hoạt động kết hợp khác nhau như giải quyết những thắc mắc trong tình huống cụ thể mà mình tham gia, mối quan hệ trong và ngoài nhóm, giải quyết những vướng mắc, vượt qua những thách thức, trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ, tìm ra những điều mình

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_bui_thi_cam_duong_mn_krong_ana_2017_2288_2021824.doc