Triển khai thực hiện, nhà trường giao cho tổ chuyên môn tổ chức học tập nâng cao nhận thức và hiểu biết về các phương pháp dạy học, những ưu nhược điểm của từng phương pháp, giúp những giáo viên mới có cách lựa chọn phù hợp với từng bộ môn, nội dung bài dạy, với đối tượng học sinh.
Đề ra những quy định, nội quy vừa bắt buộc, vừa khích lệ GV phải sử dụng ĐDDH khi lên lớp. Khi dạy học, giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy nhằm dạy học đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng, dạy học sát đối tượng. Dạy học phải chú ý đến trình độ kiến thức hiện có của học sinh, đặc điểm nhận thức của học sinh và đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh, cơ sở vật chất hiện có của nhà trường.
Tổ chức thường xuyên các hội thảo, hội nghị trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và các nội dung phương tiện, ĐDDH đem lại hiệu quả cao, kết hợp với việc tổ chức dự giờ, thăm lớp, giúp đội ngũ GV trẻ có điều kiện trau dồi, học tập để giảng dạy tốt hơn.
Phát động thi đua giữa các tổ CM về ĐMPPDH và sử dụng ĐDDH. Các tổ CM nghiên cứu trao đổi bàn bạc về phương pháp dạy một số bài khó dạy trong chương trình, mời các chuyên gia về phương pháp đến dự và truyền đạt kinh nghiệm.
Hàng năm nhà trường có tổng kết, đánh giá việc cải tiến phương pháp dạy của các tổ, các thành viên trong trường, có động viên kịp thời, có thưởng thoả đáng với những giáo viên tích cực vào việc thực hiện cải tiến phương pháp dạy học.
1 Bắc Hà 1. Tình trạng giải pháp đã biết: Hiện nay, biện pháp quản lí hoạt động chuyên môn đối với GV mới vào nghề đã được Hiệu trưởng nhà trường quan tâm, chú trọng và đã đạt được kết quả nhất định, song vẫn còn tồn tại, hạn chế, bất cập. Việc quản lý nhiều khi dựa vào kinh nghiệm thực tế của bản thân những người quản lý. Chưa thể hiện một cách xuất sắc phong cách quản lý khoa học, hiện đại, còn mang tính hành chính, công tác bồi dưỡng mang tính chất “ăn đong” mà chưa có kế hoạch lâu dài; việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích trong chuyên môn chưa được khai thác triệt để và đặc biệt việc nâng cao nhận thức chính trị cho giáo viên chưa được đặt đúng tầm của nó; việc tổ chức bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mới chưa thật thường xuyên; Việc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, khích lệ động viên có lẽ chưa kịp thời Thêm vào đó, việc định biên, tiếp nhận giáo viên mới còn bị động, ở một vài thời điểm chưa chú trọng đến năng lực, chất lượng thật của giáo viên mới vào nghề. Những điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo đội ngũ trong nhà trường. 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: Điểm mới: Các biện pháp quản lí hoạt động chuyên môn mang tính đồng bộ, toàn diện, khơi dậy lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, tạo cho họ động lực làm việc để tự kiểm soát công việc của mình, từ đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lí hoạt động chuyên môn đối với GV nói chung và đối với GV mới vào nghề nói riêng. Cụ thể đề tài đưa ra 6 biện pháp như sau: 1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động chuyên môn cho GV mới vào nghề. 1.1.Mục đích, ý nghĩa của biện pháp Bồi dưỡng lòng yêu nghề, say với nghề, lòng nhân ái, lương tâm nghề nghiệp, tính công bằng, sự nghiêm túc, làm việc kỷ cương, khoa học nhằm giúp GV mới vào nghề có nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của chuyên môn, hoạt động chuyên môn ở trường THPT, tạo điều kiện để GV mới nhanh chóng hòa nhập cùng tập thể sư phạm nhà trường, tự tin cống hiến năng lực của mình trong hoạt động, công tác đặc biệt là trong công việc được giao. 1.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp Ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng nhà trường cần tổ chức học tập nhiệm vụ năm học, quy chế chuyên môn, nghiệp vụ. Nghiệp vụ chuyên môn bao gồm những công việc liên quan đến chuyên môn của người giáo viên như việc soạn bài bài trước khi khi lên lớp, việc sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, việc thực hiện một chuyên đề giảng dạy, thực hiện nề nếp, chương trình dạy học, cách đánh giá xếp loại học sinh, cách tính điểm, vào sổ điểm, ghi chép các loại hồ sơ, cách quản lí lớp học, giải quyết các tình huống sư phạm cần thiết, Đây chính là việc cung cấp hướng dẫn cho giáo viên cách làm, tổ chức các hoạt động chuyên môn trong trường THPT, giúp họ có kiến thức, kĩ năng tổ chức, quản lí các hoạt động giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Và có tri thức căn bản đó, đội ngũ giáo viên mới vào nghề sẽ nâng cao được các kĩ năng lao động sư phạm, từ đó thay đổi căn bản tập quán, thói quen lao động tùy tiện, nghĩ gì làm vậy, hình thành cách làm việc thật sự khoa học và hiệu quả. Chỉ đạo tổ chức tốt các hoạt động, công việc chuyên môn: phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức để giáo viên mới vào nghề có nhiều cơ hội học hỏi, vươn lên khẳng định mình. Tạo ra môi trường làm việc thật thoải mái, tế nhị, lịch thiệp trong tập thể sư phạm, nhưng hiệu quả công việc phải cao. Làm cho mọi thành viên thống nhất về quan điểm, cách thức làm việc, chia sẻ và giúp đỡ nhau trong công tác cũng như trong đời sống. Trong chuyên môn, hiệu trưởng nhà trường cần phát huy tính chủ động, sáng tạo, khuyến khích những giáo viên mới vào nghề, những giáo viên trẻ đã được học, trau dồi kiến thức ở trường đại học, hay đã được đi thực tập, kiến tập sư phạm ở các trường THPT khác có những cách làm hay trong chuyên môn, hoặc có những ý tưởng tích cực trong các mặt hoạt động của nhà trường khác với những gì trường mình đang làm đem phổ biến trong cơ quan và đồng nghiệp, góp phần tích cực vào quá trình quản lí hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục trong mỗi nhà trường. Hiệu trưởng cùng các phó hiệu trưởng, TTCM luôn quan tâm đến đời sống, tâm tư, tình cảm của giáo viên. Đặc biệt là giáo viên mới vào nghề. Đó là một trong những điều kiện phát huy quyền lực sư phạm, nâng cao nhận thức cho giáo viên nhằm thực hiện tốt việc quản lí quá trình dạy học cũng như hoạt động chuyên môn và toàn bộ các mặt hoạt động trong nhà trường. 2. Đẩy mạnh quản lí thực hiện nội dung chương trình, nề nếp dạy học của GV 2.1. Mục đích ý nghĩa của biện pháp: Thiết lập, xây dựng và củng cố trật tự, kỷ cương trong dạy học, lôi cuốn được GV mới vào nghề nhanh chóng hòa nhập, quan tâm đến công việc chung, có ý thức trách nhiệm và mau chóng trưởng thành trong chuyên môn.Tạo ra nề nếp không khí làm việc lành mạnh, tích cực, tự giác, không gò bó, ép buộc mang lại hiệu quả cao trong công việc. Thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ, kiểm soát chặt chẽ và có hiệu quả chương trình giảng dạy nhằm cụ thể hóa các chức năng, nhiệm vụ trong điều lệ nhà trường sao cho phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của nhà trường, đảm bảo cho GV hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. 2.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp. Ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng nhà trường cần phải xây dựng nề nếp dạy học, nội quy, nguyên tắc thực hiện chương trình dạy học trong năm học. Trước tiên, hiệu trưởng tổ chức xây dựng các qui định riêng của đơn vị với các tiêu chí cụ thể, chi tiết để đánh giá thi đua cho chính xác, công bằng, song đảm bảo đúng văn bản chỉ đạo của cấp trên, phù hợp với tình hình nhà trường. Tổ chức cho cán bộ, giáo viên học tập, trao đổi thảo luận và rút kinh nghiệm cho việc thực hiện nề nếp ở năm trước. Các vấn đề tồn tại, yếu kém, chưa thực hiện được cần phải quán triệt lại và đề ra các biện pháp khắc phục. Các vấn đề đã thực hiện tốt phải được phát huy nhân rộng, đồng thời tuyên dương, khen thưởng kịp thời các cá nhân giáo viên, các tổ chuyên môn thực hiện tốt. Xây dựng được các thang điểm đánh giá thực hiện nội dung chương trình, nề nếp dạy học. Từng tháng, từng đợt thi đua, hay từng học kỳ hiệu trưởng cần đề ra nội dung trọng tâm và yêu cầu GV thực hiện dưới sự kiểm tra, giám sát của TTCM, ban thi đua nhà trường nhằm chuyển hóa những yêu cầu thành nếp sống, thành ý thức tự giác, tự chủ và tự đặt ra cho mình một chỉ tiêu cụ thể và phấn đấu bằng được để đạt được chỉ tiêu đó. Lập kế hoạch kiểm tra việc thực hiện các qui định, qui chế nề nếp dạy học. Phân công trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho các tập thể, cá nhân trong trường để quản lí. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. Qua kiểm tra đều có kết luận, rút kinh nghiệm, đánh giá cụ thể. Huy động khuyến khích đội ngũ GV trong nhà trường cùng tham gia xây dựng nề nếp dạy học, tạo sự thống nhất trong toàn cơ quan, tạo điều kiện để GV mới vào nghề học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp và các thầy cô trong cơ quan. Xây dựng nề nếp sinh hoạt trong cơ quan, họp hội đồng hàng tháng, sinh hoạt tổ chức đoàn thể, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội cha mẹ học sinh cần tổ chức gọn, đơn giản, có nội dung khoa học sao cho phát huy được tinh thần dân chủ, tính tích cực chủ động sáng tạo của giáo viên trong việc tham gia đóng góp ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả của các buổi sinh hoạt, với phương châm huy động được sức mạnh của tập thể. Nề nếp sinh hoạt nhóm tổ chuyên môn: Được tăng cường theo kế hoạch của tổ, đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, thảo luận nội dung theo các chuyên đề, trao đổi nội dung giảng dạy, nâng cao hiệu quả tự bồi dưỡng chuyên môn. Thực hiện có hiệu quả hệ thống bảng tin, mail cá nhân, webiste (nhà trường) trong việc nhắc nhở, đánh giá, công tác thi đua và triển khai các hoạt động của nhà trường theo tuần, tháng, năm học. 3. Tăng cường quản lí đổi mới phương pháp và sử dụng phương tiện dạy học 3.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp Cải tiến phương pháp dạy học là dựa trên những phương pháp đã có, tìm cách khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Phát huy triệt để tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, rèn cho HS phương pháp học ở lớp cũng như ở nhà, thúc đẩy quá trình nhận thức và phát triển tư duy sáng tạo của các em. Khai thác triệt để việc sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng giờ học. Tạo động lực cho đội ngũ giáo viên mới nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Từ đó có năng lực quản lý điều khiển giờ học theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học sao cho hoạt động của thày, trò phối hợp nhịp nhàng, từ đó từng bước nâng cao chất lượng giờ giảng và kết quả học tập của học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường 3.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp Công tác đổi mới phương pháp dạy học phải luôn được coi là một phần quan trọng, là chiến lược ưu tiên trong kế hoạch năm học của nhà trường. Việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là một nội dung chủ yếu trong sinh hoạt hàng tuần, hàng tháng, hàng học kỳ và cả năm học. Xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp thông qua các hoạt động: Thi GV dạy giỏi cấp Tổ, cấp trường, xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi cấp tỉnh; sinh hoạt chuyên môn- Sinh hoạt CM theo NCBH, hội thảo chuyên đề; Bồi dưỡng giáo viên nói chung, GV mới vào nghề nói riêng. Triển khai thực hiện, nhà trường giao cho tổ chuyên môn tổ chức học tập nâng cao nhận thức và hiểu biết về các phương pháp dạy học, những ưu nhược điểm của từng phương pháp, giúp những giáo viên mới có cách lựa chọn phù hợp với từng bộ môn, nội dung bài dạy, với đối tượng học sinh. Đề ra những quy định, nội quy vừa bắt buộc, vừa khích lệ GV phải sử dụng ĐDDH khi lên lớp. Khi dạy học, giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy nhằm dạy học đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng, dạy học sát đối tượng. Dạy học phải chú ý đến trình độ kiến thức hiện có của học sinh, đặc điểm nhận thức của học sinh và đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh, cơ sở vật chất hiện có của nhà trường. Tổ chức thường xuyên các hội thảo, hội nghị trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và các nội dung phương tiện, ĐDDH đem lại hiệu quả cao, kết hợp với việc tổ chức dự giờ, thăm lớp, giúp đội ngũ GV trẻ có điều kiện trau dồi, học tập để giảng dạy tốt hơn. Phát động thi đua giữa các tổ CM về ĐMPPDH và sử dụng ĐDDH. Các tổ CM nghiên cứu trao đổi bàn bạc về phương pháp dạy một số bài khó dạy trong chương trình, mời các chuyên gia về phương pháp đến dự và truyền đạt kinh nghiệm. Hàng năm nhà trường có tổng kết, đánh giá việc cải tiến phương pháp dạy của các tổ, các thành viên trong trường, có động viên kịp thời, có thưởng thoả đáng với những giáo viên tích cực vào việc thực hiện cải tiến phương pháp dạy học. 4. Tổ chức kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề và giao lưu chuyên môn với đồng nghiệp ở các trường THPT trên địa bàn toàn huyện 4.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp: Nhằm khẳng định trình độ, khả năng chuyên môn của những GV có tay nghề được phân công kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề, đồng thời, làm tăng tinh thần trách nghiệm của các đồng nghiệp với nhau, thể hiện tình đoàn kết, thân ái, thiện chí hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong chuyên môn. Tạo ra một sân chơi lành mạnh về hoạt động chuyên môn để đội ngũ GV trẻ có cơ hội thể hiện trình độ, khả năng chuyên môn, bản lĩnh và phương pháp sư phạm trước bạn bè đồng nghiệp. Huy động và phối hợp được chuyên môn nhà trường, và các tổ chức đoàn thể tham gia các tổ chức chuyên môn làm tăng thêm tình đoàn kết, sự cổ vũ, ủng hộ của cơ quan nhằm thực hiện tốt chất lượng dạy học trong các nhà trường. 4.2. Nội dung và cách thức chỉ đạo thực hiện biện pháp. Lãnh đạo nhà trường phân công GV đồng môn, có năng lực chuyên môn vững vàng, hướng dẫn thử việc - kèm cặp GV mới vào nghề. Mỗi cặp được phân công phải xây dựng một kế hoạch cụ thể, thống nhất, tập trung vào các công việc chủ yếu sau: Soạn giáo án kĩ càng, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, giảm tải, xác định trọng tâm của từng tiết dạy, thống nhất phương tiện dạy học, cách thức tổ chức từng phần, từng mảng kiến thức của tiết dạy, thể hiện rõ phần việc của thầy, của trò, kí duyệt giáo án trước khi đến lớp. GV chịu trách nghiệm hướng dẫn, giúp đỡ phải thường xuyên dự giờ (mỗi tuần ít nhất 2 tiết), chỉ đạo uốn nắn, chấn chỉnh những hạn chế thiếu sót ngay sau những tiết dạy của giáo viên được giúp đỡ. GV mới phải chủ động sắp xếp thời gian, tích cực đi dự giờ GV hướng dẫn và các đồng nghiệp khác để rút kinh nghiệm cho bản thân. Hướng dẫn GV mới học tập nghiêm túc các quy chế chuyên môn, nghiệp vụ: Ghi chép các loại hồ sơ, tiến độ kiểm tra cho điểm, cách ra đề, cách đánh giá xếp loại học sinh GV mới vào nghề phải chủ động hỏi GV hướng dẫn và có tinh thần tự giác thực hiện chương trình, nền nếp dạy học theo quy định. GV hướng dẫn luôn giám sát, nhắc nhở GV mới vào nghề hoàn thành công việc, hướng dẫn GV mới mọi vấn đề liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ, đến việc tu dưỡng, đạo đức lối sống, cách ứng xử với học sinh, phụ huynh học sinh, đồng nghiệptrong cuộc sống, công tác hàng ngày. Trên cơ sở tổ chức kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề, chỉ đạo Đoàn TNCS HCM phối hợp với chuyên môn của nhà trường kết hợp với Đoàn TNCS HCM và chuyên môn các trường bạn cùng tổ chức giao lưu, dự giờ, thăm lớp, rút kinh nghiệm giảng dạy, hòa nhập, thân ái cùng nhau, gặp gỡ đoàn kết làm tăng thêm lòng yêu nghề, phát huy sức mạnh của thế hệ trẻ và tình đoàn kết giữa các trường. GV được giao trách nhiệm và được nhận nhiệm vụ giảng dạy để dự giờ cần tham khảo GV được phân công kèm cặp, giúp đỡ mình, tham khảo ý kiến của đồng nghiệp và chuẩn bị giờ dạy thật chu đáo, cố gắng thể hiện hết khả năng, trình độ sư phạm của mình. Sau mỗi buổi dạy, tổ chức họp rút kinh nghiệm giờ dạy theo tinh thần: Không đánh giá giờ dạy, chỉ nhận xét ưu điểm, nhược điểm và đóng góp ý kiến để người dạy có thêm những kinh nghiệm bổ ích và mau tiến bộ, trưởng thành trong chuyên môn, tạo không khí thật thoải, vui vẻ, nghiêm túc khi nhận xét. Cuối đợt giao lưu, tổ chức tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm, phổ biến rộng rãi đến tất cả các trường. Đồng thời cuối năm học tổng kết, đánh giá việc kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề, khen thưởng các cặp đôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và tiếp tục duy trì hoạt động này trong những năm tiếp theo. 5. Tăng cường quản lí hoạt động bồi dưỡng và tự bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên mới 5.1. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp Biến hoạt động bồi dưỡng thành hoạt động TBD của GV mới vào nghề để nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ CM, NVSP, làm động lực cho hoạt động dạy học và nâng cao kết quả học tập cho HS. Thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của GV mới để họ có nhu cầu, kỹ năng tự học, TBD. Đổi mới tư duy về TBD và phát huy thái độ tích cực đối với hoạt động TBD của GV mới vào nghề để họ biết vận dụng sáng tạo kiến thức bồi dưỡng. 5.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp. Việc bồi dưỡng giáo viên mới cần tuân theo những nguyên tắc, thống nhất giữa bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và các nhiệm vụ đặt ra từ thực tiễn. Bồi dưỡng theo kế hoạch. Việc bồi dưỡng phải thu hút được tất cả giáo viên, lãnh đạo nhà trường. Luôn cập nhật các thành tựu mới của khoa học giáo dục và kinh nghiệm tiên tiến. Kết hợp giữa bồi dưỡng và tự bồi dưỡng theo modun trong từng năm học. Việc bồi dưỡng phải được tiến hành liên tục, không bao giờ kết thúc. Chú ý nhu cầu đào tạo, nhu cầu bồi dưỡng của từng cá nhân giáo viên, trên cơ sở đó mà có nội dung, phương pháp và hình thức bồi dưỡng cho phù hợp. Yêu cầu mỗi GV có một sổ BDCM ghi chép chi tiết, cụ thể các kiến thức, chuyên môn, những kinh nghiệm, PPGD, các công việc NVCM đã lĩnh hội. Về kiến thức chuyên môn, GV tự đọc tài liệu, tìm hiểu các vấn đề cần quan tâm, có liên quan đến CMNV của mình để nghiên cứu tìm tài liệu. Tích cực khai thác tài liệu trên Internet, tra cứu, nắm bắt thông tin trong nước, quốc tế, tìm kiếm kiến thức chuyên môn góp phần mở rộng kiến thức, tầm nhìn và hoàn thiện mình hơn. Về nghiệp vụ sư phạm, chỉ đạo GV mới phải tự ý thức xin dự giờ của đồng nghiệp, kể cả những người không cùng chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm giảng dạy.Lãnh đạo nhà trường, tổ CM, người hướng dẫn thử việc tiến hành dự giờ GV mới, trao đổi, rút kinh nghiệm. GV mới phải tự kiểm soát các công việc nghiệp vụ của mình, tự học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, từ cách cho điểm, vào sổ điểm, tính điểm, ghi, phê học bạ, ghi chép hồ sơ sổ sách, hoặc cách giao tiếp, ứng xử với cha mẹ học sinhcho đến công tác chủ nhiệm lớp, giải quyết các tình huống sư phạm cụ thể. Tiến hành kiểm tra sổ Bồi dưỡng của GV cùng với kiểm tra hồ sơ cá nhân định kỳ, đột xuất. Một năm tổ chức kiểm tra khảo sát kiến thức GV, kiểm tra việc BDTX của GV 2 lần, để đánh giá công tác BDGV trong năm. Cuối học kỳ, cuối năm học, tiến hành tổng kết, đánh giá. Cần kết hợp Bồi dưỡng tại chỗ, với việc cử giáo viên đi học. Việc đi học các lớp có hệ thống hoặc tham quan điển hình giáo dục tiên tiến giúp nhận thức và trình độ giáo viên mới được nâng lên rõ rệt. 6. Sử dụng các biện pháp tâm lí xã hội kích thích sự tự giác, tinh thần làm việc của GV mới vào nghề 6.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp: Tạo môi trường đoàn kết trong cơ quan, mọi người cùng vui vẻ, chia sẻ, yêu quý, giúp đỡ GV mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo cho họ động lực để tự kiểm soát công việc nghề nghiệp của bản thân song vẫn giữ được trật tự, kỷ cương nề nếp của nhà trường và quy chế chuyên môn theo quy định. 6.2. Nội dung tổ chức, chỉ đạo thực hiện biện pháp Hiệu trưởng cần tìm hiểu rõ hoàn cảnh, tính cách của GV, từ đó biết cách điều hòa các mối quan hệ trong cơ quan. Xây dựng mối quan hệ dân chủ, bình đẳng trong giáo dục, dạy học trên cơ sở tôn trọng kỷ cương nề nếp quy định chung của nhà trường. Gặp gỡ, trao đổi thường xuyên với GV mới, quan tâm đến việc phát triển sự nghiệp của họ, tạo điều kiện giúp họ thành công và khẳng định chỗ đứng của mình trong tập thể sư phạm. Hiệu trưởng nhà trường phải biết khai thác và sử dụng các nhân tố tích cực là những GV trẻ có nhiều tố chất thành công của các tổ nhóm chuyên môn để kích thích các GV khác thi đua dạy tốt, công tác tốt bằng việc phân công hợp lý theo hướng chuyên sâu, phù hợp với khả năng, năng lực của GV mới vào nghề. Hiệu trưởng cần quan tâm xử lý tình huống, giải quyết các vụ việc, sự kiện, hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lí, chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường. Trong công việc, hiệu trưởng phải luôn chú ý đến quyền lợi của GV, cùng với Công đoàn luôn bảo vệ, chia sẻ với họ. Hiệu trưởng luôn đặt niềm tin, thể hiện sự tin tưởng tôn trọng thế hệ trẻ, mạnh dạn giao việc cho họ, đồng thời tìm ra những ưu điểm để khen ngợi, động viên họ làm tốt công việc được giao. Hiệu trưởng cần làm cho họ thấy được tôn trọng, và từ đó họ tự giác làm việc đạt hiệu quả. Tuy nhiên, cũng phải có một yêu cầu chặt chẽ để họ được rèn giũa về nghiệp vụ sư phạm, nâng cao trình độ chuyên môn. 3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Các giải pháp, biện pháp đưa ra mang tính ứng dụng, phù hợp với đặc trưng giáo dục vùng cao, các trường THPT thường xuyên có sự luân chuyển giáo viên, có nhiều GV trẻ, giáo viên mới. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được: Khi áp dụng các biện pháp trên một cách đồng bộ, chất lượng đội ngũ của nhà trường đã có sự nâng lên rõ rệt. Kết quả xếp loại GV theo chuẩn, viên chức, thi đua đều tăng hơn so với những năm học trước. Số lượng giáo viên mới đạt trình độ khá, giỏi, đảm nhận nhiệm vụ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi năm học này tăng. Đặc biệt số giáo viên mới xếp loại Trung bình giảm so với năm học trước. Từ đó chất lượng giáo dục đại trà, chất lượng mũi nhọn của nhà trường ngà
Tài liệu đính kèm: