SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua môn văn học:

Qua một số bài thơ, câu chuyện mà giáo viên dạy trẻ, sau khi được tiếp xúc với đề tài nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, Chính nhờ như trẻ em vùng đồng bào càng ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp để nâng cao vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua môn văn học.

Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi :

Thực tế như trường chúng tôi cho ta thấy rằng giáo viên người kinh dạy cho trẻ vùng đồng bào DTTS bất đồng ngôn ngữ rất khó khăn trong giao tiếp, vì vậy ngoài những biện pháp nêu trên tôi còn cho giáo viên tham gia học lớp tiếng Êđê, sau khi giáo viên áp dụng trong công tác giảng dạy càng ngày có hiệu quả hơn trong cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ thông qua hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.

Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng việt bằng phương châm " Học nữa, học mãi" cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng việc ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng quan trọng.

 

doc 20 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 482Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Năm học 2014-2015 tổng số học sinh 227 cháu; năm học 2015-2016 tổng số học sinh 259 cháu.
* Hạn chế:
Đa số giáo viên trẻ, mới ra trường nên kinh nghiệm chưa cao trong việc dạy lồng ghép Tiếng Việt để dạy cho trẻ.
90 % học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số tâm lí nhút nhát, hay sợ hãi, ngại giao tiếp với người lạ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác dạy Tiếng Việt cho trẻ.
Trẻ chưa có tâm lí sẵn sàng cho một môi trường học tập mới.
	Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến con em mình, phó mặc cho nhà trường, cho nên việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường còn gặp nhiều khó khăn. 
2.3 Mặt mạnh, mặt yếu : 
* Mặt mạnh:
Được sự quan tâm tạo điều kiện từ các cấp Lãnh đạo, nhà tài trợ công ty Dăk Man đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học. Hiện nay trường chúng tôi đã có môi trường thoáng mát, xanh – sạch – đẹp đầy đủ tiện nghi và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Ban giám hiệu nhà trường dành nhiều thời gian đầu tư cho công tác chuyên môn hoạt động dạy và học.
Trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, tận tụy với nghề, có trình độ chuẩn, trên chuẩn về chuyên môn, thường xuyên được ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho đi tham gia các lớp tập huấn về chuyên đề về tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 
Trẻ được học theo đúng độ tuổi và thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của Bộ GD&ĐT.
* Mặt yếu :
Phân hiệu lẻ ở 3 buôn còn thiếu CSVC lớp học, nên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác dạy và học của trẻ.
2.4 Các nguyên nhân,các yếu tố tác động 
* Nguyên nhân dẫn đến thành công của đề tài này là. 
Hiệu trưởng có trách nhiệm cao trong toàn bộ các công việc, các mặt hoạt động của nhà trường. Đã chỉ đạo kịp thời cho chuyên môn tiến hành khảo sát năng lực giáo viên trong trường vào đầu năm, theo dõi các hoạt động để tìm ra nguyên nhân, có biện pháp giúp đỡ cho phù hợp.
Luôn bám sát và thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà ngành đã triển khai một cách chủ động, sáng tạo dựa trên thực tế trường lớp, địa phương.
Giáo viên nhiệt tình, chịu khó học hỏi kinh nghiệm để không ngừng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ.
Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp đặc biệt là những đồng nghiệp công tác lâu năm trong trường.
* Hạn chế, yếu kém.
Trẻ chưa tự tin, còn nhút nhát trong các hoạt động giao tiếp. Trẻ chưa có tâm lí sẵn sàng cho một môi trường học tập mới
Một số cha mẹ chưa thực sự quan tâm tới việc học tập dẫn đến khi tiếp xúc với người khác trẻ còn dùng tiếng mẹ đẻ.
 	 2.5 Phân tích, đánh giá thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
 	Vào đầu năm học khi nhà trường chưa có kế hoạch đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì chúng ta thấy kết quả được thể hiện qua bảng kiểm tra đầu năm như sau:
Lĩnh vực GD trẻ 
Trẻ không hiểu 
Trẻ hiểu 
Trẻ rất hiểu 
Phát triển ngôn ngữ 
102/209=48,8%
68/209=32,5%
39/209=18,6%
Phát triển nhận thức 
105/209=50,2%
70/209=33,4%
34/209=16,2%
Phát triển TC-XH 
103/209=49,2%
72/209=34,4%
34/209=16,2%
Phát triển thể chất 
80/209=38,2%
76/209=36,3%
53/209=25,3%
Phát triển thẩm mỹ 
70/209=33,4%
72/209=34,4%
67/209=32,0%
* Mặt mạnh:
Giáo viên đã tham gia tích cực trong công tác dạy Tiếng Việt cho trẻ em vùng đồng bào DTTS, đã tuyên truyền tới các bậc cha mẹ học sinh biết được tầm quan trọng của việc sử dụng Tiếng Việt trong trường Mầm non. 
Luôn học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, biết lắng nghe, biết sửa sai, không bảo thủ nên chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.
Các đồng chí giáo viên được bố trí 02 cô / lớp, 01 giáo viên người kinh, 01 giáo viên người đồng bào DTTS để tiện trong việc tiếp xúc với trẻ.
Được sự quan tâm của các cấp nhất là công ty cà phê Dăk Man Việt Nam trang bị về cơ sở vật chất cho nên thuận tiện trong việc giảng dạy và vui chơi học tập của trẻ. 
* Hạn chế 
Do một số giáo viên người kinh ít tiếp xúc với trẻ em người đồng bào DTTS cho nên bất đồng ngôn ngữ trong giao tiếp. 
Tài liệu dùng cho giáo viên giảng dạy vùng đồng bào DTTS chưa có, giáo viên phải tự tìm tòi, học hỏi cho nên còn bất cập trong công tác giảng dạy. 
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Tìm ra các giải pháp, biện pháp giúp giáo viên nắm vững phương pháp sử dụng lồng ghép dạy Tiếng Việt một cách có hiệu quả đối với trẻ.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
a. Giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như: phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người mới, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở những lớp tiếp theo.
Giúp cho cha mẹ học sinh nhận thức được tầm quan trọng trong việc học Tiếng Việt của trẻ. 
* Hướng dẫn giáo viên dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng Việt: 
Cung cấp Tiếng Việt cho trẻ qua môn làm quen chữ cái 
Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái. Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc làm quen với Tiếng việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với Tiếng việt .Cách gọi làm quen với Tiếng việt thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ cái .Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm quen với Tiếng việt không chỉ là dạy trẻ phát âm ,dạy trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chư cái trong Tiếng việt.
Có một số ít trẻ nói được Tiếng việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của Tiếng việt .Vì vậy ,việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để tìm được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái tương ứng .
Ví dụ : Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ h - k chẳng hạn :
 Cô cho trẻ xem tranh " Hoa loa kèn" cho trẻ đọc từ : Hoa loa kèn 
 Trẻ nhận biết trong từ Hoa loa kèn có bao nhiêu tiếng ? Có mấy con chữ cái ? 
 	Rồi cô ghép thẻ từ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát âm lại những chữ đó .Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen h- k, tôi phân tích các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái H-K, cho trẻ phát âm chữ h-k nhiều lần giúp trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái. 
Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua các trò chơi chữ cái :
Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong Tiếng việt tôi tiến hành cho giáo viên thực hiện tiếp thông qua các trò chơi chữ cái. 
 Điều đáng chú ý là trẻ Mẫu giáo Làng yều rất ham thích được học qua hình ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi .Mỗi khi được nhìn thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và cùng nhau khám phá .nắm bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm.
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái H-K trong bài thơ " Hoa kết trái"
Thông qua các trò chơi trẻ được phát triển ngôn ngữ qua các chữ cái đã học như chữ H-K, phát âm đúng các chữ cái đã học qua trò chơi , " Xếp chữ cái bằng hột hạt". " Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái"... 
Bên cạnh đó tôi luôn hướng dẫn giáo viên làm thêm một số đồ dùng tự tạo có gắn chữ cái đã học ở các góc trong lớp, ngoài lớp học. Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ. 
Cung cấp Tiếng việt thông qua tập tô :
 Thông qua môn tập tô nhằm cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản về cách tô nét cơ bản và tô đúng mẫu quy trình chữ cái đối với trẻ buôn đồng bào DTTS lại càng khó khăn. Vì trẻ chưa biết cầm bút, chưa có ý thức học tập. Bên cạnh đó tính cách của trẻ rất hiếu động, ít chịu ngồi im và lắng nghe cô dạy. Vì trẻ từ nhỏ đã quá tự do, ít được sự quan tâm dạy dỗ của ba mẹ. Vì vậy trẻ rất cần sự uốn nén dìu dắt của cô giáo ngay từ những buổi học đầu tiên. Bản thân tôi làm công tác quản lý luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những biện pháp phù hợp áp dụng vào dạy trẻ, giúp cháu tô đúng quy trình, nét tô mạch lạc, cầm bút đúng cách và ham thích học. Tôi hướng dãn tập tô các nét cơ bản của chữ cái ( ở một số tuần đầu ) các nét thẳng, nét cong, nét móc trên, nét mọc dưới, nét khuyết trên , nét khuyết dưới... sau tập tô dần các chữ cái viết thường, in thường. Cô luyện cho trẻ tập tô chữ theo từng bước như sau: Nhận dạng mẫu chữ, tìm hiểu cấu tạo chữ gồm những nét cơ bản nào. 
Ví dụ : Chữ h in thường gồm có nét thẳng đứng kết hợp nét móc trên. 
Chữ h viết thường gồm có nét khuyết trên kết hợp nét móc hai đầu ...
Tôi hướng dấn cho giáo viên cách thực hiện trẻ tập tô như sau: Điểm đặt bút trên một ô li nhỏ đưa bút lên sang phải một nét xiên đến ô li thứ 5 đưa bút cong sang trái sổ thẳng cho trẻ tô viết được nét khuyết trên, tiếp theo trẻ đưa bút lên đến đường ngang ô li thứ 2( từ dưới lên) đưa bút sang phải rồi sổ thẳng xuống đá hất ra, điểm kết thúc là gần hết 1 ô li cuối cùng, qua nhiều lần tôi hướng dẫn trẻ tỉ mỹ cho giáo viên tô đúng quy trình, vì vậy trẻ không còn tô ngược và nhất là nhiều trẻ tô đẹp, đúng hàng.
 Ngoài ra tôi còn cho giáo viên tập cho trẻ tập tô vào bảng con, vào vở tập tô in sẳn, vào vở ở nhà của trẻ, lần nào cũng vậy tôi đều hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho trẻ dễ hiểu vì đặc điểm của trẻ dân tộc thiểu số tiếp thu rất chậm nhưng lại quên rất nhanh, kết hợp cho trẻ tô viết các nét cơ bản hay tô viết các chữ cái tôi đều cho trẻ luyện phát âm theo cô nhiều lần. Dần dần tôi thấy trẻ có phần tiến bộ hơn ham thích được tô viết, tô viết mạch lạc, nhiều trẻ tô đúng quy trình và phát âm chuẩn các chữ cái. Tôi rất vui vì đã áp dụng ngôn ngữ Tiếng Việt vào môn học này. 
Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua môn văn học: 
Qua một số bài thơ, câu chuyện mà giáo viên dạy trẻ, sau khi được tiếp xúc với đề tài nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, Chính nhờ như trẻ em vùng đồng bào càng ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp để nâng cao vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua môn văn học. 
Cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi :
Thực tế như trường chúng tôi cho ta thấy rằng giáo viên người kinh dạy cho trẻ vùng đồng bào DTTS bất đồng ngôn ngữ rất khó khăn trong giao tiếp, vì vậy ngoài những biện pháp nêu trên tôi còn cho giáo viên tham gia học lớp tiếng Êđê, sau khi giáo viên áp dụng trong công tác giảng dạy càng ngày có hiệu quả hơn trong cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ thông qua hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng việt bằng phương châm " Học nữa, học mãi" cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng việc ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng quan trọng.
Trong giờ đón trẻ tôi hướng dẫn cho giáo viên luôn thân thiện với trẻ, gọi trẻ ân cần vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chãi tóc cho trẻ và hỏi những câu hỏi như: Ai mua áo quần đẹp cho con. Nhà con gồm có những ai ?. Nhà con có mấy anh chị em?; bố con làm việc gì ?; mẹ con có thương con không?. ...Qua trò chuyện với trẻ như vậy giáo viên nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn.
Giờ chơi tự do tôi cho giáo viên dẫn trẻ đi xung quanh trường, trò chuyện với trẻ về vườn rau, cây cảnh, hỏi trẻ về một số loại cây có gắn các chữ cái đã học, giáo viên hướng dẫn trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm chữ cái đã học qua nhiều lần như vậy trẻ phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, hoặc mạnh dạn trong giao tiếp với cô, trẻ không còn rụt rè như trước nữa. 
Trong các giờ hoạt động vui chơi tôi hướng dẫn cho giáo viên tập cho trẻ trong giờ đóng kịch đóng các vai khác nhau, từng nhân vật trẻ thể hiện khác nhau, có vai thiện, vai ác trẻ thể hiện được các nhân vật của mình, qua tiếp xúc với bạn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách rõ rệt. Chính nhờ vậy mà đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và với cô.
Kết hợp với cha mẹ học sinh:
Trong các buổi học trẻ được tiếp xúc với cô rất nhiều như chúng ta biết việc phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ. Vì vậy cuối năm học tôi tiến hành cho mời cha mẹ học sinh đến họp, thông báo kết quả học tập của trẻ cho cha mẹ học sinh biết được khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng việt của trẻ ra sao để cha mẹ học sinh kết hợp, hợp tác trong việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ ở nhà như: Cha mẹ dùng Tiếng việt để trao đổi với con em nhiều hơn, kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học chữ cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc chữ cái, viết được chữ cái, phát âm đúng chữ cái và nhất là nói thạo Tiếng việt nhất định để trẻ tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp học mầm non và nhất là trong các cấp học sau này. Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy cha mẹ học sinh quan tâm nhiều hơn đến việc cung cấp vốn tiếng việt ở nhà cho trẻ. Cho nên trường chúng tôi hiện nay nói thành thạo ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng giáo viên và các bạn của trẻ. 
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Đối với trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số việc nắm được vốn Tiếng Việt là hết sức quan trọng trẻ được tiếp xúc qua môi trường học tập, sinh hoạt, từ đó trẻ bắt đầu thích nghi với quan hệ với mọi người một cách thực thụ. 
Khi trẻ đến trường Tiểu học, trẻ được hòa nhập vào những mối quan hệ mới với người xung quanh như: thầy, cô, bạn bè và những người lớn xung quanh... Khác với trường mầm non, trẻ sống trong cuộc sống, sinh hoạt như gia đình. Hơn nữa ở mỗi giai đoạn phát triển đều có những yêu cầu về tâm, sinh lý, về xã hội đòi hỏi mỗi học sinh phải thích ứng với hoạt động học tập. Nếu chúng ta không chuẩn bị tốt cho trẻ vốn Tiếng Việt thì việc học tập sau này sẽ không đạt kết quả như mong muốn.
Trong điều kiện hiện tại trường chúng tôi nhận thấy học sinh đa số là người đồng bào DTTS cần phải suy nghĩ, làm thế nào đó để giúp giáo viên, cha mẹ học sinh hiểu được tầm quan trọng trong việc nắm vững Tiếng Việt khi vào trường phổ thông. Vì vậy mà tôi đã tìm ra được một số giải pháp sau:
 b1: Làm tốt công tác tuyên truyền cho cha mẹ học sinh trên địa bàn hiểu được tầm quan trọng công tác dạy trẻ nắm được được Tiếng Việt 
          Vào đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường tổ chức triển khai đến tận cán bộ giáo viên về nhiệm vụ năm học đề ra và nhất là các chuyên đề lồng ghép Tiếng Việt cho trẻ em vùng đồng bào DTTS. và kịp thời chỉ đạo cho chuyên môn hướng dẫn giáo viên làm tốt công tác dạy Tiết Việt cho trẻ nắm được khi bước vào trường phổ thông. 
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền tới cha mẹ học sinh về công tác huy động trẻ đến trường, tổ chức họp cha mẹ học sinh phối hợp về công tác chăm sóc giáo dục trẻ và kết hợp lồng ghép tăng cường Tiếng Việt cho trẻ. 
          Về phía nhà trường thường xuyên phối hợp với chuyên môn tổ chức thao giảng, dự giờ cho giáo viên qua các môn học như : Làm quen chữ cái, thơ chuyện, phát triển vận động. Qua các hội thi sẽ tạo nên sự chuyển biến một cách rõ rệt, để cha mẹ học sinh hiểu được tầm quan trọng trong việc dạy Tiếng Việt cho trẻ em đồng bào DTTS. 
	b2. Làm tốt việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đây là tiền đề quan trọng chuẩn bị tốt cho trẻ vào lớp 1, không gây trở ngại việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy gia đình, nhà trường cần kết hợp để rèn luyện kỹ năng giao tiếp và chú trọng phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong việc giao tiếp của trẻ vùng đồng bào DTTS thì việc nói tốt tiếng Việt có thể nói là quan trọng cho việc trẻ học đọc, học viết khi vào lớp 1. Thực tế cho thấy, trẻ muốn giỏi các môn khác thì trước tiên phải giỏi môn tiếng Việt.
Ở trường mầm non, giáo viên cần mở rộng vốn từ bằng những gì gần gũi, phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Ở nhà cha mẹ có thể ôn lại những bài học đó cho con bằng tiếng Việt (hạn chế nói tiếng mẹ đẻ). Nói chuyện với con, cắt nghĩa của từ cho con hiểu là sự chuẩn bị tốt cho việc đọc, viết ở lớp 1của trẻ. Vì chúng ta biết ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, đồng thời ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập công đồng. 
Nhà trường và gia đình phải tạo cho con lòng tự tin, ý thức kỷ luật, hành vi văn minh, biết thương yêu giúp đỡ mọi người và có ý thức giữ gìn của côngĐó là những việc đơn giản nhưng thiết thực để hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở bậc học tiếp theo. Tuyệt đối không cho trẻ học trước chương trình lớp 1 mà chỉ dạy trẻ phát âm, tô đúng 29 chữ cái trong chương trình mẫu giáo, rèn luyện cơ tay, phối hợp các trò chơi vận động giúp cho cơ thể dẻo dai và đôi tay khéo léo sau này. 
Giáo dục cho trẻ có ý thức tự giác về bản thân như: Chơi xong tự cất đồ chơi. Đặt câu hỏi để khích thích trẻ biểu lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình thông qua tranh ảnh, hình vẽ, thơ, truỵên. Giáo dục trẻ có thói quen tự phục vụ bản thân như: biết tự mặc áo, sắp xếp bàn học, bàn ăn. Giúp trẻ lựa chọn và tham gia các hoạt động chơi nhằm phát triển tính tự tin, tự lực và sáng tạo của trẻ, từ đó kích thích lòng mong mỏi, hào hứng được đến trường học. 
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển trí tuệ, tiếp thu kiến thức học tập ở trường phổ thông. Hình thành và phát triển kỹ năng nghe, nói, tiền đọc, tiền viết cho trẻ là nền tảng để trẻ hiểu về thế giới chữ viết và tiếp nhận nhiều tri thức mới. 
b3. Phát triển nhận thức.
Như chúng ta đã biết, ở cuổi tuổi MG chú ý có chủ định đang hình thành và phát triển nhận thức của trẻ, song chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế. Để giúp trẻ giải quyết tốt nhiệm vụ học tập ở trường phổ thông sau này, người giáo viên cần rèn luyện cho các cháu biết tập trung chú ý vào những vấn đề cần thiết, nhận thức bằng cách giao nhiệm vụ khi các cháu tham gia vào các hoạt động.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động tạo hình giáo viên tổ chức cho trẻ hoạt động trong lớp theo các nhóm, dưới sự phân công hướng dẫn của giáo viên: Hướng dẫn cách tô màu sao cho không trùng khít trên trang giấy, các nhóm tập trung vẽ theo sự hướng dẫn của cô, khi tạo được sản phẩm đẹp cuối giờ cô cho trẻ tự nhận xét bài vẽ của trẻ, trẻ biết được bài đẹp, bài vẽ chưa hoàn thành, nhận xét đánh giá qua các câu hỏi của cô từ đó tăng cường thêm vốn Tiếng Việt cho trẻ. 
Mỗi giáo viên cần có trách nhiệm kết hợp giữa gia đình với nhà trường gần gũi với trẻ hơn qua các hành động cử chỉ để trẻ dần làm quen với Tiếng Việt một chác tự nhiên không gò bó và thông qua môn học trẻ có thể chủ động tập trung lắng nghe hiểu, tự tin, làm đúng trẻ sẽ tự nói và thực hành với bạn của mình; giáo viên cần cho trẻ thực hành ở mỗi lần học, giáo viên chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn giản, gắn gọn, không dẫn dắt nhiều vì trẻ chưa hiểu Tiếng Việt. Khi dạy trẻ giáo viên cần xác định những loại câu, từ, câu nào xẽ sử dụng khi hướng dẫn trẻ cô nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ ra hiệu cho trẻ để trẻ dễ hiểu ý đồ của mình thay cho việc nói nhiều của giáo viên. Cần cho trẻ ôn lại ngôn ngữ mà trẻ đã học từ hôn trước để khác sâu sự nghi nhớ bằng hình thức “Chơi mà học, học mà chơi” ; ví dụ : Cô hô trời sáng rồi, trười tốt rồi; trò chơi “ Trời mưa” ..... 
b4. Phát triển thể chất 
Tro

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_NH_2015_-_2016_(_VIEN_).doc