Sáng kiến kinh nghiệm Lồng ghép kĩ năng sống vào giảng dạy môn Tin học

Sáng kiến kinh nghiệm Lồng ghép kĩ năng sống vào giảng dạy môn Tin học

Kĩ năng nghiên cứu tình huống (nghiên cứu các trường hợp điển hình)

* Mô tả phương pháp

Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản

 

doc 12 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 4224Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Lồng ghép kĩ năng sống vào giảng dạy môn Tin học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ yếu học sinh chỉ được dạy kiến thức còn việc giáo dục kỹ năng sống chưa được quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lý Huỳnh Văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: "hiện nay, thuật ngữ kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị "lạm dụng" khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu gì về nó". Theo Vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh viên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) Phùng Khắc Bình, trong tương lai và về lâu dài cần xây dựng chương trình môn học giáo dục kỹ năng sống cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 12. 
 Cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng cập nhật giá trị và hoàn thiện giá trị của mình. Để tồn tại và phát triển, với bất kỳ ai phải có công việc làm để đảm bảo sự tồn tại của cuộc sống là vô cùng quan trọng. Đồng thời đó là yêu cầu học tập, bồi dưỡng, rèn luyện không ngừng để nâng cao chất lượng đời sống đó, để đời sống thực sự là “sống” chứ không là “tồn tại”. 
 Trên tinh thần đó phải có một quan điểm, một hướng đi, một mục tiêu cho việc giảng dạy lồng ghép kỹ năng sống vào trong môn tin học.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp.
 A. Quan điểm lồng ghép kỹ năng sống vào trong giảng dạy môn tin học. 
 Thứ nhất: Bám sát những mục tiêu giáo dục kỹ năng sống, đồng thời đảm bảo mạch kiến thức - kỹ năng của giờ dạy tin học. 
 Thứ hai: Tiếp cận giảng dạy kỹ năng sống thông qua tổ chức các hoạt động giảng dạy kết hợp trong nội dung và phương pháp dạy học trên lớp. Nghĩa là thông qua nội dung và phương pháp dạy học để rèn luyện, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Chẳng hạn như: khi dạy đến Phần Soạn thảo văn bản ở sách giáo khoa môn tin học lớp 6 thì chúng ta thấy trong cuộc sống có nhiếu việc liên quan đến văn bản như soạn thông báo, viết đơn từ, làm báo cáo, viết báo tường,và đây là những công việc soạn thảo văn bản bằng tay vậy để nhanh hơn thì ta có thể nhờ đến sự trợ giúp của máy tính ngoài cách soạn thảo bằng chữ ra ta còn có thể soạn thảo với nhiều nội dung phong phú khác như bảng biểu, hình ảnh, chữ nghệ thuật, công thức toán, Như vậy qua chương này chúng ta đã rèn luyện cho các em được kỹ năng soạn thảo và trình bày được các đơn từ, báo cáo và những công việc liên quan đến soạn thảo văn bản để ứng dụng cho cuộc sống sau này. 
- Hay trong chương I: Mạng máy tính và Internet ở sách giáo khoa môn tin học lớp 9. Thì chúng ta biết rằng: Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, Với các kỹ năng sống: tìm kiếm và xử lí thông tin là một kỹ năng quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời. 
 Để tìm kiếm và xử lý thông tin chúng ta cần: 
 - Xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin là chủ đề gì? (ví dụ như ôn thi đại học, giới tính,). 
- Xác định các loại thông tin về chủ đề mà mình cần phải tìm kiếm là gì? (ví dụ như đề thi môn toán lớp 8, 9,.)
- Xác định các nguồn, các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông tin đó ( ví dụ: sách, báo, mạng internet, cán bộ các cơ quan, tổ chức có liên quan, bạn bè, người quen) 
- Lập kế hoạch thời gian và liên hệ trước với những người có liên quan đến việc cung cấp thông tin. (nếu có) 
- Chuẩn bị giấy tờ, phương tiện, bộ công cụ để thu thập thông tin (ví dụ: máy tính, máy ghi âm, phiếu hỏi, bộ câu hỏi phỏng vấn,), nếu cần thiết. 
 - Tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng. 
- Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ thống. 
- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều, xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các thông tin đó. 
 Hoặc khi dạy chương trình tin học 9. Sách giáo khoa do NXB giáo dục viết. Ngoài kiến thức trọng tâm ta còn rèn luyện cho các em thêm các kỹ năng sáng tạo, tự làm chủ lấy bản thân, làm việc có trình tự, khoa học, cẩn thận, biết tự tìm tòi sáng tạo, mở rộng các kĩ năng học tập thông qua mạng internet, học trực tuyến, tìm kiếm các tài liệu hỗ trợ học tập, nâng cao kiến thức đáp ứng nhu cầu học và tự học Từ những kỹ năng đó sẽ giúp ích cho các em vững vàng trong tương lai. 
B./ Một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống cụ thể:
1. Kĩ năng động não
* Mô tả phương pháp
Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ít để (lôi ra) một danh sách các thông tin.
* Cách tiến hành
Có thể tiến hành theo các bước sau:
- Giáo viên (GV) nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến học sinh, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì không.
* Những yêu cầu sư phạm
- Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kỳ một vấn đề nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong cuộc sống thực tế của học sinh.
- Phương pháp này có thể dùng cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn.
- Tất cả mọi ý kiến đều cần được GV hoan nghênh, chấp nhận mà không nên phê phán, nhận định đúng, sai ngay.
- Cuối giờ thảo luận GV nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự tham gia chung của tất cả học sinh.
- Động não không phải là một phương pháp hoàn chỉnh mà chỉ là sự khởi đầu. Một khi danh sách các câu trả lời đã được hoàn thành, cần phải cho cả lớp dùng danh sách này để xác định xem câu trả lời nào là sai.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của mình biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp trẻ dễ hoà nhập vào cộng động nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
2. Kĩ năng thảo luận nhóm
* Phương pháp
- Như bản thân tiêu đề của phương pháp đã ngụ ý thực chất của phương pháp này là để học sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học.
Câu hỏi mà các em bàn bạc có thể là kiểu câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng nhờ việc thảo luận trong nhóm nhỏ mà:
- Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, là tăng tính khách quan khoa học.
- Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm;
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các nhóm.
- Sẽ thuận lợi hơn nếu mỗi nhóm chọn một trong những thành viên trong nhóm làm trưởng nhóm. Nhóm trưởng điều khiển dòng thảo luận của nhóm, gọi tên các thành viên lên phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp đảm bảo rằng mỗi người- bao gồm cả những cá nhân hay xấu hổ hoặc ngại phát biểu có cơ hội để đóng góp. Đồng thời ở nhiều trường hợp nhưng không phải là tất cả - trong nhóm còn có ghi biên bản, sẽ ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận để trình bày trước cả lớp. Học sinh cần được luân phiên nhau làm ( nhóm trưởng ) và ( thư ký ) và luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận.
- Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng thay, viết hoặc vẽ trên giấy to,; có thể do một người thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp nhau,
- Trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ, GV cần đi vòng quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh. Thỉnh thoảng cũng rất hữu ít nếu GV xen lời bình luận vào giữa cuộc thảo luận của một nhóm. Đối với những đề tài nhạy cảm thường có những tình huống mà học sinh sẽ cảm thấy bối rối xấu hổ khi phải nói trước mặt GV, trong trường hợp này GV có thể quyết định tránh không xen vào hoạt động của nhóm khi thảo luận.
 * Cách tiến hành
Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm.
- Các nhóm tiến hành thảo luận.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác lắng nghe, chấp vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- GV tổng kết các ý kiến.
* Yêu cầu sư phạm
- Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo màu sắc, theo biểu tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi,
- Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 đến 8 học sinh là tốt nhất bởi lẻ.
+ Số học sinh này nhỏ vừa đủ để đảm bảo tất cả các em có thể tham gia tích cực.
+ Số học sinh này lớn vừa đủ để đảm bảo rằng các em không bao giờ thiếu ý tưởng, và không có gì để nói.
3. Kĩ năng hoạt động nhóm nhỏ
* Mô tả phương pháp
Hoạt động nhóm nhỏ tương tự với những gì đã nói ở trên đối với phương pháp thảo luận nhóm, trừ một điều là GV mong muốn học sinh thực hiện một số bài tập cụ thể hơn là thảo luận đề tài.
* Cách tiến hành
Thường thì trước tiên học sinh cần phải thảo luận trước, sau đó mới làm bài tập và trình bày, giới thiệu sản phẩm hoạt động.
* Yêu cầu sư phạm
- Nội dung, hình thức hoạt động trong nhóm phải phù hợp với chủ đề bài dạy, phải phù hợp với nhu cầu và trình độ học sinh và với điều kiện thực tế của lớp, của trường.
- Việc trình bày, thảo luận kết quả, sản phẩm hoạt động nhóm có thể dưới nhiều hình thức khác nhau.
4. Kĩ năng đóng vai
* Mô tả phương pháp
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “ Làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này và hơn thế điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm như :
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh .
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
* Cách tiến hành
Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống và yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận, nhận xét, thường thì thảo luận bắt đầu về cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, nhưng sẽ mở rộng phạm vi xem thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề và vở diễn chứng minh.
- GV kết luận
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục học để cùng chung sống, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống nên để mở, không cho trước “ Kịch bản” , lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề.
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
- Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai.
5. Kĩ năng nghiên cứu tình huống (nghiên cứu các trường hợp điển hình)
* Mô tả phương pháp
Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản
* Các bước tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có nghĩa là :
- Đọc ( hoặc xem hoặc nghe) tình huống thực tế.
- Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài lĩnh vực đó trước khi thảo luận điều đó với người khác).
- Đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống (trong tài liệu viết hay từ giáo viên.
- Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề.
- Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như: bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo ? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân vật B? v.v vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn.
6. Kĩ năng trò chơi:
* Mô tả phương pháp
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của thanh thiếu niên học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy học quan trọng
- Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
- Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
- Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động; không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
- Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa GV với học sinh.
* Yêu cầu sư phạm
- Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề giáo dục “học để cùng chung sống”, với đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho học sinh.
- Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.
- Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.
- Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiến tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi.
- Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh.
- Sau khi chơi, GV cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
7. Kĩ năng dự án
* Mô tả phương pháp
Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh gia quá trình và kết quả thực hiện.
Phương pháp dự án có 3 đặc điểm cơ bản sau:
- Định hướng học sinh: Trong phương pháp dự án, học sinh tham gia tích cực và tự lực vào quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm và sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến hứng thú của HS: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Hứng thú của các em cũng cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án còn cần có sự hợp tác làm việc theo nhóm và sự phân công công việc giũa các thành viên của nhóm. Phương pháp dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng hợp tác của HS.
- Định hướng hoạt động thực tiễn: Phương pháp dự án kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Chủ đề dự án gắn liền với các vấn đề, tình huống, thực tiễn. Nhiệm vụ dự án cần phù hợp với trình độ và khả năng HS.
- Định hướng sản phẩm: Trong phương pháp dự án, các sản phẩm được tạo ra theo định hướng sản phẩm. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà còn tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn thực hành.
Phương pháp đề án có ưu điểm:
- Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội
- Kích thích động cơ, hứng thú học tập của HS
- Phát huy tính tự lực, tinh thần trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo, rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; kĩ năng hợp tác; năng lực đánh giá.
- HS có cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng sống quan trọng như: giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu 
* Các bước tiến hành
- Chọn đề tài và xác định của dự án: GV và HS cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích dự án. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thế hoá. Trong một số trường hợp, việc đề xuất đề tài có thể từ phía học sinh.
- Xây dựng đề ương, kế hoách thực hiện: trong giai đoạn này, HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, cách tiến hành, người phụ trách mỗi công việc 
- Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện, dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo. Sản phẩm dự án cũng có thể là tranh, ảnh, pa-nô,  để triển lãm, cũng có thể là những sản phẩm phi vật thể như: diễn một vở kịch, một cuộc tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách dân số trong cộn đồng,  Sản phẩm dự án có được trình bày giữa các nhóm HS, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội.
- Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện, kết quả và kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
* Yêu cầu sư phạm
- Mục tiêu dự án phải rõ ràng và có tính thực tiễn, tính khả thi.
- Cần tạo cơ hội để tăng cường sự tham gia của HS trong dự án, tuy nhiên phải phù hợp với trình độ và khả năng của các em.
B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu
Giáo dục kĩ năng sống thông qua các tiết học, sinh hoạt của học sinh trong giờ học môn Tin học.
 Trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ thống về tin học bao gồm: Kiến thức về những thông tin và dữ liệu, giới thiệu vế máy tính, làm quen với một số bài toán và thuật toán, biết giải các bài toán trên máy tính, biết một số ứng dụng của tin học, biết một số hệ điều hành thông dụng, biết quản lí tệp và thư mục, biết soạn thảo và trình bày văn bản, biết tìm kiếm và truy cập thông tin 
 Hình thành và phát triển các năng lực về tin học: Năng lực sử dụng máy tính thành thạo và thể hiện ở các kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. năng lực tiếp nhận kiến thức tin học, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học, năng lực sáng tạo và năng lực thực hành ứng dụng. 
 Về kiến thức: Nâng cao hiểu biết về các giá trị truyền thống của dân tộc cũng như các giá trị tốt đẹp của nhân loại, góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung, khắc sâu kiến thức đã học về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, v

Tài liệu đính kèm:

  • doc6_SKKNLong_ghep_ki_nang_song_vao_giang_day_mon_Tin_hoc.doc