Đề tài Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Đề tài Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Mô hình VNEN là mô hình phát huy được năng lực học tập của học sinh ở chính không gian học tập. Một không gian mở, thân thiện và khơi gợi được hứng thú học tập của các em sẽ nâng cao được hiệu quả học tập. Hiệu quả cho thấy những bài Tiếng Việt được liên kết với không gian học tập cùng với các công cụ hỗ trợ học tập giúp các em ghi nhớ và khắc sâu kiến thức đã học đồng thời giúp các em vận dụng được các kỹ năng cần thiết trong môn Tiếng Việt.

Những công cụ hỗ trợ hiệu quả trong các tiết Tiếng Việt của lớp VNEN là “Nhịp cầu bè bạn”, “Góc học tập” và Góc Thư viện”. Hiệu quả trong việc dạy học Tiếng Việt xưa nay chưa cao là do chúng ta chỉ dừng lại ở khuôn khổ của bài học mà chưa phát triển nó ra, chưa có tính ứng dụng với thực tế, với đời sống sinh hoạt của các em.

Những dòng chia sẻ được gửi qua Nhịp cầu bè bạn sau khi học xong tiết học là cơ hội để học sinh rèn kỹ năng viết thường xuyên nhất. Thông qua những lá thư được gửi cho bạn bè, cho thầy cô giáo các em sẽ được trao đổi cho nhau những suy nghĩ, tình cảm của mình. Nhưng hơn thế nữa kỹ năng viết của các em sẽ nâng cao dần. Giáo viên cho học sinh đọc thư của mình trước lớp, sau đó cho các bạn trong lớp nhận xét. Chú ý cho học sinh nhận xét ở cách diễn đạt câu văn. Hình thức gửi thư tôi thay đổi để mỗi học sinh mỗi lần gửi được gửi cho những bạn khác nhau: Có thể gửi cho bạn ngồi bên tay phải trong nhóm, gửi cho bạn ngồi đối diện với bạn hoặc gửi cho bạn mà em muốn gửi.

 

doc 28 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 2400Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ét cho nhau và giúp nhau khắc phục những sai sót thông qua từng ngày, từng giờ lên lớp. Do vậy thấy rõ được hiệu quả cho từng giải pháp. 
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế:
- Đối tượng học sinh chưa thực sự đồng đều.
- Thời gian thực hiện các giải pháp không liền mạch, có sự gián đoạn về thời gian của tiết học và sau đó được tiếp tục vào các tiết ôn do đó học sinh nắm bắt các giải pháp chưa có tính hệ thống.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Học tập theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh phát huy được tinh thần học tập tích cực, tự giác, chia sẻ, hợp tác, sáng tạo. Giáo viên chỉ là người hỗ trợ, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Học sinh được khuyến khích tự nhận xét bản thân và nhận xét bạn. Khi các em tự mình tìm ra điểm sai và tìm cách giải quyết thì kiến thức đó sẽ rất bền vững. Do đó mô hình VNEN góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giảng dạy các môn học và hoạt động giáo dục trong đó có môn Tiếng Việt.
Những khó khăn, vướng mắc trong dạy học môn Tiếng Việt là điều không phải mới. Nó xuất hiện đồng hành trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, yếu tố quyết định vẫn là cách làm đúng hướng và phù hợp của giáo viên, khơi gợi ở các em ý thức tự học. Luôn luôn động viên sự tiến bộ của các em, hướng dẫn dần dần cùng sự hợp tác, hỗ trợ của không gian lớp học, không gian sống của các em sẽ mang hiệu quả trong việc phát triển con người toàn diện, bồi dưỡng nhân cách và kỹ năng cho học sinh.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giải pháp này hướng đến các mục tiêu:
- Tăng cường hiệu quả học tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5.
- Phát triển tốt các kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ năng giao tiếp, hợp tác.
- Phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh, đáp ứng mục tiêu xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiên giải pháp, biện pháp
- Học sinh chủ động chiếm lĩnh được kiến thức, ghi nhớ và khắc sâu được kiến thức. Từ đó vận dụng có hiệu quả vào trong các hoạt động giao tiếp và các hoạt động sử dung ngôn ngữ. Giáo viên là người định hướng, khơi gợi cho học sinh; hỗ trợ học sinh khi gặp khó khăn.
- Tăng cường thêm các bài tập để khai thác đối tượng học sinh.
- Chú ý phát triển các kỹ năng cơ bản cho học sinh, đặc biệt kỹ năng viết, kỹ năng nói.
3.2.1. Tăng cường sử dụng từ đúng, từ hay thông qua các bài Luyện từ và câu
 Để học sinh dùng từ hay trước hết tôi đặc biệt chú ý hướng dẫn học sinh hiểu đúng nghĩa của từ thông qua các tiết Luyện từ và câu, mở rộng vốn từ. Muốn học sinh hiểu đúng từ cần chú ý đến cách phát âm chuẩn, viết đúng và cách diễn đạt của học sinh. Khi học sinh nói, viết cho các em khác nhận xét, bổ sung, sửa chữa cho nhau theo cặp, theo nhóm rồi báo cáo lại. Giáo viên theo dõi, hỗ trợ khi cần thiết, nhận xét, chỉnh sửa cho các em. Sau mỗi lần như thế, học sinh nắm được những thiếu sót của bản thân để lần sau không mắc phải. Đặc biệt với những em hiểu sai nghĩa từ, giáo viên có thể hướng dẫn các em sử dụng Từ điển Tiếng Việt, cho các em đặt câu với nghĩa các em hiểu được, sau đó giải thích cho học sinh trong tình huống cụ thể. Làm được điều này học sinh sẽ ghi nhớ được lỗi sai của mình và có được cách hiểu đúng về nghĩa từ một cách tự nhiên và lâu quên.
Ví dụ: Khi dạy bài 19A: Người công dân số Một, học sinh thường hay mắc lỗi đọc nhầm “Người công dân số Một” thành “Người công nhân số Một”. Lí do của do các em chưa hiểu nghĩa được hai từ “công dân” và “công nhân”, do đó sử dụng nhầm lẫn mà không hề biết. Lúc này tôi thường cho học sinh đặt hai câu để học sinh phân biệt nghĩa: Anh Thành là một công dân gương mẫu của đất nước và Bố em là công nhân của nhà máy sợi. 
Khi học sinh đã biết dùng từ đúng, có nhiều cách giúp học sinh dùng từ hay. Để dùng được từ hay trước hết học sinh phải hiểu nghĩa của từ, dùng từ chính xác. Quan trọng để học sinh tự tư duy, tự tìm tòi, phát huy sự sáng tạo của các em.
Phần lớn học sinh là tự học, nhưng giáo viên phải có sự định hướng, hỗ trợ kiến thức cho học sinh. Ví dụ như kiến thức về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm. Thực tế học sinh hay nhầm lẫn giữa từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa và từ đồng âm. Không nắm được nghĩa của chúng bởi vì định nghĩa về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa chính xác dẫn đến sự khó khăn cho học sinh trong việc nhận diện. Phân biệt các từ trên nếu chỉ dựa vào định nghĩa là chưa đủ. Đứng trước thực tế đó nên tôi đã hỗ trợ cho học sinh bằng cách mở rộng và hệ thống kiến thức.
- Đầu tiên cho học sinh tự nhắc lại định nghĩa của từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm.
- Nêu một số ví dụ để học sinh dễ hiểu kiến thức hơn.
Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau. Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái.
Ví dụ: Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một cái gì đó (Giữ gìn quần áo, bảo vệ quần áo)
Tuy nhiên hai từ này có điểm khác nhau:
+ Bảo vệ phù hợp với đối tượng lớn trừu tượng, giữ gìn phù hợp với đối tượng nhỏ, quý (Giữ gìn đoàn kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, Bảo vệ đất nước)
	Ví dụ : Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một cái gì đó (Giữ gìn quần áo; bảo vệ quần áo)
	+ Bảo vệ có nét nghĩa ngăn ngừa, phòng chống, ngăn chặn sự tác động của bên ngoài; giữ gìn có tính chất thụ động giữ cái đã có, không có sắc thái chống lại thế lực bên ngoài (giữ gìn luận văn khác bảo vệ luận văn)
	Hoặc các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái. Giáo viên nên hỗ trợ để học sinh thấy rõ được nét nghĩa riêng dùng đúng cho từng trường hợp.
	Ví dụ: Cho, biếu, tặng: cho có sắc thái trung hòa, biếu có sắc thái kính trọng, tặng có sắc thái thân mật.
	Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng các từ đồng nghĩa khác nhau. Hay nói cách khác, các từ đồng nghĩa không phải bao giờ cũng thay thế được cho nhau, chúng đồng nghĩa với nhau vì chúng vừa giống nhau vừa khác nhau.
	Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau nên dễ nhầm lẫn:
	Ví dụ: Ba (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
	 (2) số từ: Số ba là con số không may mắn của tôi.
	Học sinh có thể nhầm lần từ ba là từ nhiều nghĩa vì hình thức âm thanh giống nhau. Khi gặp trường hợp này, tôi đã phân biệt để học sinh thấy được các nét nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, còn ở đây các nét nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa. Trường hợp ở ví dụ trên là từ đồng âm.
	Để giúp học sinh có thể phân biệt được đâu là từ nhiều nghĩa đâu là từ đồng âm cần giúp học sinh xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối với từ nhiều nghĩa), nếu loại trừ được có quan hệ về các nét nghĩa thì đó là từ đồng âm còn nếu chúng có quan hệ về nét nghĩa với nhau thì đó là từ nhiều nghĩa.
Học sinh tham gia thảo luận tìm ra kiến thức bài học
3.2.2. Phát triển kỹ năng đọc cho học sinh qua các bài Tập đọc
Có bốn kỹ năng đọc là đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu và mục tiêu cuối cùng là đọc diễn cảm. Để đạt được đọc diễn cảm thì trước tiên học sinh phải luyện được đọc đúng, đọc lưu loát và đọc hiểu.
Luyện đọc phải chú ý đến từng đối tượng học sinh. Khi học sinh học theo mô hình VNEN, học sinh ngồi học theo nhóm, việc luyện đọc cũng được thực hiện trong nhóm. Do đó khi lựa chọn nhóm trưởng trong giờ luyện đọc thì kỹ năng đọc của nhóm trưởng phải tốt. Hơn nữa nhóm trước phải thực sự nhanh nhẹn khi tổ chức luyện đọc cho các bạn. Những bạn đọc chậm có thể cho đọc một đoạn, những bạn đọc tốt hơn cho đọc hai đoạn hoặc cả bài. Chú ý phải theo dõi, nhận xét và chỉnh sửa cho các khi bạn phát âm sai rồi báo cáo cho giáo viên. Giáo viên tổ chức luyện đọc thêm cho học sinh đọc còn chậm.
Rèn kỹ năg đọc cho học sinh là cả một quá trình mà yếu tố quyết định là ở ý thức tự rèn của các em. Do vậy, giáo viên cần luôn nhắc nhở các em phải thường xuyên luyện đọc thêm ở nhà. Có đọc thêm ở nhà thì học sinh mới biết từ nào mình đọc sai để lên lớp sửa chữa. Ngoài ra phải bồi dưỡng cho các em ham thích đọc sách, ý thức tự đọc. Sưu tầm thêm sách báo để đọc. Tham gia thêm các Câu lạc bộ Tiếng Việt của trường, lớp để nâng cao khả năng đọc của mình.
Giờ luyện đọc của các em học sinh trong một tiết Tiếng Việt
Ví dụ: Khi dạy bài kì diệu rừng xanh (Nguyễn Phan Hách, Tiếng Việt 5- tập 1B), học sinh dễ mắc các lỗi sai sau, giáo viên chú ý luyện đọc thêm cho học sinh những từ ngữ:
- Lúp xúp (luyện đọc đúng vần)
- Giang sơn vàng rợi, màu sắc sặc sỡ rực lên, nấm dại, chồn sóc, rừng rào rào chuyển động (luyện âm đầu và cụm từ)
Đọc diễn cảm là kỹ năng cao nhất trong luyện đọc. Thông qua nhiều hình thức: Luyện đọc diễn cảm đoạn văn (khổ thơ) em thích nhất, luyện đọc diễn cảm cả bài hoặc đọc phân vai, đóng kịch (đối với những văn bản nhiều lời thoại). Giáo viên chú ý cho học sinh về sắc thái giọng đọc, ngắt giọng, nhấn giọng, nét mặt, của chỉ khi đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chuỗi ngọc lam” 
Luyện đọc theo kiểu phân vai như sau: 4 học sinh trong nhóm phân vai: người dẫn chuyện, chú Pi-e, cô bé Gioan và chị cô bé rồi luyện đọc. Học sinh nhận xét giọng đọc của từng nhân vật như sau:
+ Lời cô bé Gioan: ngây thơ, hồn nhiên khi khen chuỗi ngọc lam đẹp, khi khoe nắm xu lấy từ con lợn đất tiết kiệm.
+ Lời chú Pi-e: điềm đạm, nhẹ nhàng, tế nhị
+ Lời chị cô bé: lịch sự, thật thà
+ Người dẫn chuyện: đọc giọng kể chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng. Câu kết chuyện đọc chậm, đầy cảm xúc.
Về thời gian luyện đọc, cần dành nhiều thời gian để luyện đọc, tuỳ vào trình độ của học sinh, giáo viên cho luyện kỹ năng đọc đoạn trọng tâm đoạn khó, cho các em đọc tốt đọc trước lớp. Đến những tiết ôn tập, giáo viên coi đây như một dịp để học sinh thi đọc với nhau, kết hợp với hai cách chọn bài thích nhất, đoạn thích nhất hoặc bắt thăm thi đọc thuộc lòng. Giáo viên nên tuyên dương những em có giọng đọc tốt, diễn cảm và cũng cần những hình thức động viên, khuyến khích những em đọc chưa tốt.
Bản thân giáo viên cần rèn kỹ năng đọc, giáo viên cần có giọng đọc tốt để đọc mẫu hoặc hướng dẫn học sinh đọc. Giọng đọc giáo viên là công cụ trực quan cho học sinh luyện đọc.
Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ chức các trò chơi học tập. Để kích thích hứng thú luyện đọc bằng cách tổ chức các trò chơi, thông qua trò chơi kích thích các em hứng thú học tập và tinh thần thi đua.
Ví dụ: Thi học thuộc lòng “Truyền điện” theo nhóm, bài “Sắc màu em yêu”. Các nhóm bốc xăm để giành quyền đọc trước Nhóm đầu tiên đọc đoạn 1, sau đó chỉ bất kì truyền điện thật nhanh một bạn khác nhóm 2,tương tự như vậy đến hết bài. Nếu nhóm nào không thuộc thì bị đứng “điện giật”. Nhóm nào có ít bạn bị “điện giật” thì nhóm đó thắng cuộc.
 Như vậy ta thấy trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng, say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh tự đọc, luyện đọc nhiều hơn.
3.2.3. Rèn kỹ năng làm văn cho học sinh
 Muốn học sinh rèn được kỹ năng viết được một bài văn hay thì giáo viên không nên vội vàng. Đầu tiên phải hướng dẫn học sinh viết được đoạn văn hay, câu văn hay. Ở các lớp dưới, học sinh đã được rèn luyện viết câu rất kĩ do đó ở lớp 5, giáo viên nên chú ý chỉnh sửa lại cho học sinh và phát triển cho học sinh kỹ năng viết đoạn văn.
- Ở học sinh thường mắc lỗi viết lan man, viết dài dòng dẫn đến viết dài mà không có được ý. Do đó khi viết tôi chú ý rèn cho học sinh viết câu mở đoạn, từ câu mở đoạn sẽ triển khai các câu trong đoạn văn. Trong đoạn văn chú ý cho học sinh tả theo trình tự nhất định, lôgic. Mỗi khi học sinh viết giáo viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn.
Ví dụ: Khi dạy viết đoạn văn tả hình dáng người bạn em yêu quý nhất. Tôi định hướng cho học sinh nắm được ý chính của đoạn văn là tả hình dáng với câu mở đoạn như: Bạn Hoa là một người rất xinh xắn, dễ thương. Vậy xinh xắn, dễ thương như thế nào sẽ triển khai để viết các câu tiếp theo trong đoạn văn với các chi tiết về dáng người, khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, chiếc mũi, cái miệng, làn da,Thực hiện tốt khâu định hướng học sinh sẽ không bị lạc đề hay viết lan man.
- Khi viết đoạn văn, cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, lặp ý. Cần nhắc học sinh khi miêu tả, cần tả cụ thể từng chi tiết chứ không phải kể hay liệt kê chi tiết dẫn đến tình trạng học sinh chỉ mới viết được 5 đến 7 câu thì không biết viết gì nữa.
Khi học sinh hoàn thiện được đoạn văn cần phải tổ chức nhận xét, chỉnh sửa đoạn văn. Tổ chức học sinh nhận xét cho học sinh, nhóm nhận xét cho học sinh. Sau đó giáo viên nhận xét chung và chỉnh sửa lại.
Dựa vào quá trình viết đoạn văn, học sinh sẽ tiến hành viết cả bài văn, giáo viên nhắc nhở học sinh một bài văn hoàn chỉnh cần có đủ ba phần:
Phần mở bài:
Mở bài có hai kiểu là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Giáo viên nên khuyến khích để học sinh viết theo mở bài gián tiếp và cho học sinh tập viết trước đoạn mở bài, sau đó cho học sinh đọc để các bạn khác nhận xét. Nếu học sinh viết chưa được, giáo viên cho học sinh viết lại. Lúc này những bạn viết tốt rồi sẽ tư vấn, hỗ trợ cho những bạn chưa hoàn thành. Giáo viên sẽ nhận xét lại.
Phần thân bài:
Ở phần thân bài, định hướng cho học sinh viết từng đoạn. Giáo viên cho học sinh viết phần thân bài rồi đọc các bạn nghe và nhận xét. Những bài viết tốt là bài viết diễn đạt trôi chảy, rõ ý. Học sinh biết sử dụng những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng phù hợp. Vận dụng được các giác quan trong quá trình quan sát một cách linh hoạt. Khi học sinh viết tốt giáo viên cần có có hành động tuyên dương, khen thưởng kịp thời để tạo sự khích lệ đối với các em.
Nếu bài văn viết chưa đạt, giáo viên động viên học sinh viết lại, có thể tham khảo những bài văn thành công. Ngoài ra giáo viên sử dụng thêm hình ảnh, tranh ảnh hay video để tăng khả năng cảm thụ, giúp học sinh dễ dàng hình dung trong quá trình quan sát.
Phần kết bài: 
Đây là phần quan trọng, giáo viên nên hướng cho học sinh kết bài mở rộng. Cũng như các phần trên giáo viên cần thường xuyên hỗ trợ, chỉnh sửa cho học sinh. Khi học sinh viết tốt nên tuyên dương, động viên kịp thời.
Trong suốt quá trình dạy học các bài Tập làm văn, ngoài việc chỉnh sửa, nhận xét cho học sinh, để cho câu văn của học sinh tránh khô khan, thiếu hình ảnh. Tôi còn chú ý tạo ra môi trường học tập vui tươi, tích cực, kích thích hứng thú học tập của các em thông qua các hoạt động như trò chơi, thi đua. Việc dạy học Tập làm văn có hiệu quả không phải một sớm một chiều mà phải thực hiện cả một quá trình xuyên suốt tích lũy và rèn luyện. Vì thế, tôi thường xuyên cho các em trao đổi, nhận xét bài làm với bạn, ghi chép lại những câu văn hay vào Sổ tay Văn học của mình hoặc chia sẻ ở Góc Tiếng Việt.
Trong quá trình dạy học, tôi tạo điều kiện để các em được tự do phát triển năng lực học tập cá nhân, trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi em. Đây chính là dịp các em được thể hiện năng lực và vốn văn chương của mình. 
Cụ thể như sau: Tôi đưa ra những câu đơn giản, đủ thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Sau đó cho các em tự suy nghĩ, thi đua đưa ra những hình ảnh so sánh để câu văn hấp dẫn, sinh động hơn. Ở hình thức thi đua này, sẽ tạo cho các em một môi trường học tập tích cực, em nào cũng muốn được thể hiện tài năng của mình trước lớp. Do đó, các em sẽ đem hết khả năng và vốn từ ngữ của mình ra thi thố cùng các bạn. Đây chính là những cơ hôi để các em được dử dụng vốn từ của mình, chỉnh sửa được cách dùng từ đặt câu.
Ví dụ: Bé Nga đang tập đi
Học sinh có thể thêm:
- Ngoài hiên nhà, bé Nga đang chập chững tập đi.
- Ô kìa, bé Nga đang tập đi mới dễ thương làm sao!
- Đôi chân xinh xắn của bé Nga đang chập chững bước đi từng bước một ngoài hiên nhà.
3.2.4. Khắc phục lỗi chính tả 
Nhìn chung tình hình phạm lỗi chính tả của học sinh trong nhà trường Tiểu học rất đa dạng. Có nhiều loại lỗi và cách khắc phục:
- Lỗi do chưa hình thành được biểu tượng âm thanh chi nên khi dạy giáo viên phải đọc chuẩn xác, đọc tròn vành, rõ chữ giúp học sinh viết một cách dễ dàng hơn, cần đọc đúng tốc độ để học sinh viết kịp.
- Lỗi viết hoa tùy tiện, lẫn lộn giữa chữ viết hoa và chữ viết thường. Không nắm được quy tắc viết hoa, kiến thức ngữ pháp còn hạn chế. Vì vậy giáo viên cho học sinh nắm vững quy tắc viết hoa, thường xuyên cho học sinh ôn luyện các quy tắc chính tả.
 Ví dụ: Một số lỗi như: Pháp/ pháp, Ê-mi-li/ Ê-Mi-Li, Sông Đà/ Sông đà, Nô- en/ Nô En
- Lỗi do học sinh trong quá trình học môn Tiếng Việt không chịu khó, thiếu tính cẩn thận dẫn đến viết thừa nét, thiếu nét, chữ viết không đúng quy định,Giáo viên cần chú ý đến những em này, cho các em tự sửa lỗi của mình để tìm ra chỗ các em viết sai, sau đó cho các em so sánh với bài viết của bạn để so sánh, khắc phục lỗi của mình.
Ví dụ: Các nét khuyết trên và nét khuyết dưới học sinh viết không đầy đủ, nét móc xuôi và nét móc ngược thường bị thiếu,
Cách tiến hành trong các tiết luyện viết theo trình tự viết bài viết trước, thực hiện các hoạt động về kiến thức chính tả sau như lâu nay đã làm cho phần viết trở nên quan trọng hơn và luyện chính tả trở thành phần phụ của tiết học. Chính vì vậy giáo viên thường đầu tư nhiều vào phần viết bài còn các hoạt động bài tập thường lướt qua nhanh. Nếu nghiên cứu kĩ ta sẽ thấy quy tắc chính tả thưởng nằm ở các hoạt động sau bài luyện viết. Nghĩa là học sinh chưa biết hoặc chưa nhớ lại quy tắc đã viết bài thì làm sao các em nắm vững được các quy tắc chính tả.
Tại sao chúng ta không mạnh dạn “đột phá” đổi mới bằng cách đảo trình tự tiết dạy: Phần luyện tập chính tả dạy trước và bài luyện viết dạy sau.
Ví dụ: Dạy bài Việt Nam thân yêu ở tuần 1, nếu chúng ta dạy luyện tập chính tả trước để nhắc lại quy tắc chính tả: K, gh, ngh đứng trước i, e, ê/ c, g, ng đứng trước a, o, ô, ơ thì khi viết bài luyện viết, các em sẽ vận dụng ngay quy tắc đó mà viết ít sai hơn cũng như khắc sâu kiến thức về chính tả hơn. Hay với bài Thư gửi các học sinh ở tuần 3, Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ ở tuần 4, phần luyện tập là quy tắc đánh dấu thanh. Phần luyện tập được dạy trước, học sinh nắm được kiến thức chính tả: Dấu thanh đặt ở âm chính/ Âm chính là nguyên âm đôi, là tiếng không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi/ Âm chính là nguyên âm đôi, là tiếng có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. Sau đó, học sinh viết bài chính tả chắc chắn rằng các em sẽ đánh dấu thanh chính xác hơn và nhớ lâu hơn quy tắc chính tả này. 
Việc thực hiện luyện tập chính tả trước khi viết còn tiết giảm được thời gian. Vì nếu giáo viên tiến hành luyện tập chính tả trước ở các bài này thì ở bước cho học sinh viết từ dễ sai chính tả của phần bài viết, giáo viên có thể lược qua các từ có thể áp dụng quy tắc chính tả mà học sinh mới vừa học ở phần luyện tập. 
Đổi mới phương pháp giảng dạy ở tiết chính tả không dễ nhưng nếu giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung tiết dạy, nắm chắc trọng tâm, mạnh dạn thay đổi trình tự và lược bỏ các bước thừa thì tiết chính tả sẽ đạt hiệu quả cao hơn, học sinh sẽ viết chính tả tốt hơn.
3.2.5. Phát huy các công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết Tiếng Việt
Mô hình VNEN là mô hình phát huy được năng lực học tập của học sinh ở chính không gian học tập. Một không gian mở, thân thiện và khơi gợi được hứng thú học tập của các em sẽ nâng cao được hiệu quả học tập. Hiệu quả cho thấy những bài Tiếng Việt được liên kết với không gian học tập cùng với các công cụ hỗ trợ học tập giúp các em ghi nhớ và khắc sâu kiến thức đã học đồng thời giúp các em vận dụng được các kỹ năng cần thiết trong môn Tiếng Việt.
Những công cụ hỗ trợ hiệu quả trong các tiết Tiếng Việt của lớp VNEN là “Nhịp cầu bè bạn”, “Góc học tập” và Góc Thư viện”. Hiệu quả trong việc dạy học Tiếng Việt xưa nay chưa cao là do chúng ta chỉ dừng lại ở khuôn khổ của bài học mà chưa phát triển nó ra, chưa có tính ứng dụng với thực tế, với đời sống sinh hoạt của các em.
Những dòng chia sẻ được gửi qua Nhịp cầu bè bạn sau khi học xong tiết học là cơ hội để học sinh rèn kỹ năng viết thường xuyên nhất. Thông qua những lá thư được gửi cho bạn bè, cho thầy cô giáo các em sẽ được trao đổi cho nhau những suy nghĩ, tình cảm của mình. Nhưng hơn thế nữa kỹ năng viết của các em sẽ nâng cao dần. Giáo viên cho học sinh đọc 

Tài liệu đính kèm:

  • docth_119_4283_2021992.doc