Đề tài Một số biện pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số vào lớp một

Đề tài Một số biện pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số vào lớp một

Với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, lúc hồi hộp, lúc gây cấn của cô đã lôi cuốn được trẻ vào giờ học và từ đó trẻ chăm chú lắng nghe cô kể và tiếp thu được lời kể của cô giáo. Cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện.

- Để cháu nhớ và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể kể nhiều lần bằng nhiều hình thức, khi kể cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ, giọng nói, hành động của từng nhân vật một cách rõ ràng, phù hợp với tính cách của từng nhân vật để trẻ có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu là nhân vật hung dữ

Ví dụ: Nhân vật Dê mẹ thì ta thể hiện giọng nhẹ nhàng, hiền lành

Nhân vật Dê con khi nói chuyện với mẹ thì giọng ngây thơ trong sáng, còn khi nói chuyện với Chó sói thì giọng cứng rắn, gan dạ

Nhân vật Chó sói thì ta thể hiện giọng xảo quyệt

- Đối với đọc thơ tôi luôn tạo cho trẻ sự chú ý tập trung bằng giọng đọc diễn cảm và không quên thể hiện cử chỉ điệu bộ tiến hành cho trẻ đọc thơ bằng nhiều hình thức như (cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các nhân, đọc nối đuôi ) và cứ sau mỗi lần trẻ thực hiện được cô không quên tặng quà hay tuyên dương trẻ

- Với những hình thức như vậy vốn từ tiếng Việt của trẻ đã tăng lên một cách rõ rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy tôi tiếp tục tìm tòi các biện pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu và tăng vốn từ tiếng Việt.

 

doc 22 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1721Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số vào lớp một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trong cuộc đời của trẻ, là một bước chuyển biến mang tính nhảy vọt, chính vì thế mà trong trẻ có sự biến đổi vô cùng to lớn. Ở trường mầm non trẻ được sống trong môi trường có sự giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng của các cô giáo người mà luôn được coi là người mẹ thứ hai của trẻ, nhưng khi bước vào lớp một trẻ phải tiếp xúc với một môi trường mới lạ, với những hoạt động mới, một vị trí xã hội mới và với những mối quan hệ mới của một người học sinh thực thụ. Trẻ sẽ khó tiếp cận và thích nghi ngay được, chính vì vậy nhiệm vụ của người giáo viên mầm non không chỉ giúp trẻ chiếm lĩnh được những kiến thức, những kỹ năng ở trường mầm non mà còn cần phải tạo cho trẻ có một tâm thế vững vàng, sẵn sàng bước vào lớp một để trẻ có thể mạnh dạn, tự tin tiếp cận môi trường của trường tiểu học một cách nhanh nhất nhằm giúp trẻ tiếp thu kiến thức ở trường tiểu học một cách tốt nhất, và đặc biệt hơn là việc chuẩn bị tâm thế cho các cháu dân tộc thiểu số vào lớp một là vấn đề cần được thực hiện, bước đầu thực hiện nội dung này tôi đã gặp những thuận lợi và không ít khó khăn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
- Trước tình hình thực tế ở trường, tôi nghĩ việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ dân tộc thiểu số vào lớp một là một việc hết sức quan trọng cần thiết và cấp bách. Khi mới nghĩ đến điều này thì tưởng chừng như đơn giản nhưng trên thực tế lại không đơn giản, tôi đã tự hỏi phải làm thế nào để có thể giải quyết vấn đề một cách hiệu quả và với 1 số kinh nghiệm nhỏ tôi đã mạnh dạn áp dụng cho trẻ ở trường tôi với mục đích giúp trẻ là người đồng bào dân tộc thiểu số có một tâm thế vững vàng để sẵn sàng bước vào lớp một một cách mạnh dạn và tự tin.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Biện pháp 1. Tuyên truyền huy động trẻ đi học chuyên cần.
- Để thực hiện cũng như giải quyết vấn đề trên, trước hết chúng ta cần phải làm tốt công tác tuyên truyền và huy động trẻ đến trường. 
- Tuyên truyền với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho các cháu đến lớp mầm non đúng độ tuổi.
- Là một giáo viên đứng lớp điều trước hết chúng ta cần phải tạo sự gần gũi với trẻ, tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình của từng trẻ, thường xuyên gặp gỡ nói chuyện và trao đổi với phụ huynh của trẻ, cho họ biết việc đưa con mình đến lớp mẫu giáo là một vấn đề quan trọng, nó giúp ích cho trẻ rất nhiều, cháu đến trường sẽ được học chương trình mầm non, các cháu được tham gia tất cả các hoạt động ở trường như múa, hát, được làm quen với các bài thơ, các chữ số, chữ cái, được nghe kể chuyện, tập vẽ, tập tô qua các hoạt động đó sẽ giúp hình thành ở các cháu các kỹ năng cần thiết, đồng thời qua đó giúp hình thành nhân cách của các cháu một cách tốt nhất, và nhờ đó cũng giúp cho các cháu mạnh dạn hơn, tự tin hơn, giao tiếp tốt hơn, các cháu không còn bỡ ngỡ khi bước vào lớp một Bên cạnh việc tuyên truyền với phụ huynh giáo viên cần tạo sự gần gũi thương yêu trẻ, luôn tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm, cũng như “nghệ thuật” lên lớp làm cho trẻ hứng thú hơn mỗi khi đến trường, để trẻ cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”
- Luôn tìm tòi, nghiên cứu và tổ chức những hoạt động vui chơi hấp dẫn, sưu tầm và làm đồ dùng, đồ chơi đa dạng, phong phú phục vụ cho các hoạt động của trẻ nhằm thu hút trẻ đến lớp.
- Kết hợp với phụ huynh ở nhà có thể trò chuyện với trẻ bằng tiếng phổ thông, cho trẻ tiếp cận với thông tin đại chúng như mở tivi cho các cháu xem những chương trình thiếu nhi, ca nhạc, phim hoạt hình để giúp các cháu phát triển kĩ năng giao tiếp xã hội.
Biện pháp 2: Khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ và chuẩn bị cho
 trẻ về thể lực.
- Trẻ đã đi học chuyên cần nhưng nêú tình trạng sức khỏe của trẻ không tốt cũng như thể lực không đảm bảo thi liệu trẻ có thể tham gia vào các hoạt động một cách tích cực không ? Để trẻ có thể tham gia các hoạt động một cách chủ động và tích cực đòi hỏi trẻ phải có một thể lực tốt, trẻ khỏe mạnh, tăng cân đều, làm được điều đó trước hết chúng ta cần có một kế hoạch cụ thể ngay từ đầu năm hoc, kết hợp với y tế cân đo và khám sức khỏe cho trẻ, theo dõi và chấm biểu đồ tăng trưởng, nắm được tình hình sức khỏe của trẻ để đưa ra biện pháp khắc phục, trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe của con em mình trong kỳ họp đầu năm cũng như hằng ngày khi đưa con đến trường, để họ biết và cùng giáo viên có hướng khắc phục, giáo viên có thể cung cấp cho phụ huynh một số kiến thức cơ bản về vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ, để phụ huynh có thể chăm sóc cho con em mình khi trẻ ở nhà.
- Ở trường giáo viên cần tạo cho trẻ tâm trạng thoải mái khi tham gia các hoạt động cũng như trong giờ ăn, giờ ngủ, không áp đặt cũng như gây áp lực cho trẻ, cô nên vỗ về, động viên trẻ khi trẻ biếng ăn, trẻ ăn hết suất cô động viên, khen trẻgiáo viên thường xuyên chú ý theo dõi tình hình trẻ một cách sâu sát, không nên thờ ơ với trẻ vì có như vậy thì chúng ta mới phát hiện sớm những biểu hiện khác thường của trẻ về sức khỏe, tâm lýcủa trẻ ở trường. 
- Cùng với sự quan tâm đến chế độ ăn uống của trẻ thì giấc ngủ của trẻ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển thể chất của trẻ. Trẻ cần có một giấc ngu ngon và ngủ sâu, để có được điều đó thì giáo viên cần làm tốt công tác vệ sinh phòng ngủ cho trẻ, ấm về mùa đông và thoáng mát về mùa hè, tránh cho trẻ ngủ nơi cửa có gió lùa mạnhđối với những trẻ khó ngủ, ít ngủ, chúng ta cần gặp phụ huynh trao đổi tình hình cho phụ huynh biết để nhắc nhở trẻ ở nhà ngủ đúng giờ, đủ giấc
- Ngoài thực hiện tốt công việc theo dõi sức khỏe của trẻ, cho trẻ ăn, ngủ thì chúng ta cần phải có chế độ tập luyện, vận động cho trẻ hợp lý vì trẻ vận động sẽ góp phần tiêu hao năng lượng sẽ kích thích thèm ăn và khi ăn sẽ có cảm giác ngon miệng, cũng như khi ngủ sẽ có giấc ngủ sâu. Vậy để thực hiện được những công việc trên đòi hỏi chúng ta phải linh động, giờ nào việc nấy, không bắt trẻ ngồi thụ động một chổ hoặc tránh tình trạng trẻ hoạt động quá nhiều gây mệt mỏi.
- Thực hiện tốt những công việc trên đồng nghĩa với việc chúng ta đã khắc phục được tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ và chuẩn bị tốt về mặt thể lực cho trẻ. 
Biện pháp 3: Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, kiến thức, kỹ năng cho trẻ thông qua các hoạt động.
* Hoạt động mọi lúc mọi nơi
- Cô giáo luôn gần gũi, trò chuyện và giao tiếp với trẻ tạo cho trẻ sự gần gũi, yêu thương. 
- Cô giáo có thể tạo mọi tình huống ở mọi lúc, mọi nơi.
Ví dụ: Khi trẻ đến lớp trẻ chào cô, cô nên khen bé ngoan, có thể hỏi trẻ : Hôm nay ai đưa con đi học? sáng nay mẹ cho con ăn gì?...nếu trẻ chưa trả lời được thì cô giáo có thể giúp trẻ, cô trả lời trước và cho trẻ nhắc lại theo cô..hoặc trong giờ hoạt động ngoài trời cô có thể tổ chức cho các cháu đi dạo trong sân trường, đặt câu hỏi theo chủ đề đang thực hiện để trẻ trả lời, nếu trẻ chưa trả lời được cô mời trẻ khác trả lời và cho trẻ đó nhắc lại
Ví dụ: chủ đề Thế giới động vật tổ chức cho trẻ tham quan mô hình “Trang trại nhà bé”, tôi đặt câu hỏi gợi ý để trẻ trả lời “Đây là con gì”, “Là động vật sống ở đâu”...
- Đa số trẻ đều dùng tiếng mẹ đẻ trả lời, trước tình huống đó tôi đã cho cháu biết tên của con vật đó đồng thời khuyến khích các cháu gọi tên con vật bằng tiếng Việt.
- Những lúc tổ chức cho các cháu chơi trò chơi dân gian hay chơi tự do tôi
 luôn tìm sẵn những bài thơ, bài vè, ngắn dể đọc, dễ nhớ có trong chương trình, phù hợp với chủ đề để dạy cho các cháu, tôi luôn khuyến khích các cháu đọc, sửa sai cho những cháu đọc chưa đúng, đối với các cháu đọc chưa rõ ràng thì tôi dạy cho các cháu đọc từng câu qua những lúc trò chuyện với các cháu như vậy đã giúp tôi biết được cháu nào còn rụt rè nhút nhát, cháu nào còn sử dụng câu cụt hay cháu nào chưa phát âm rõ từ đó tôi dành nhiêu thời gian gần gũi trò chuyện và tập cho cháu phát âm nhiều hơn, đồng thời giúp các cháu mạnh dạn giao tiếp với bạn, với cô hơn.
* Hoạt động khám phá khoa học
- Đây là một môn học mà đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những “nghệ thuật” để lên lớp, vì môn học này sử dụng phương pháp quan sát và đàm thoại, mà trẻ người dân tôc thiểu số thì rất hạn chế về ngôn ngữ tiếng việt. Trẻ chỉ có thể trả lời theo sự gợi ý của cô hoặc trả lời bằng câu cụt
- Môn KPKH là một trong những môn học giúp trẻ phát triển nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy chúng ta cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ. Nhưng chúng ta không nhất thiết phải đặt nặng vấn đề đây là một tiết học và bắt các cháu phải thực hiện, chúng ta có thể biến tiết học thành một cuộc thi tài hay đố vui có thưởng
Ví dụ: Trong chủ đề “Động vật” Đề tài: những con vật đáng yêu.
- Cô giáo có thể tạo tình huống và dẫn dắt cho trẻ tham gia chương trình “Đố vui có thưởng”, cô đố trẻ đây là con gì? Hoặc có thể xử dụng hình thức bốc thăm và đọc câu hỏi: Con chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời, nếu trẻ trả lời đúng cô khen trẻ tặng quà, trẻ chưa trả lời được thì mời bạn khác trả lời giúp, và cho trẻ nhắc lại, nếu trẻ vẫn không trả lời được thì cô có thể gợi ý và cho trẻ nhắc lại... 
* Hoạt động làm quen với toán:
 - Khi trẻ bước vào lớp một, kiến thức sơ đẳng nhất là trẻ phải biết đếm,
 thêm bớt, chia nhóm, tạo nhóm trong phạm vi 10, trẻ nhận biết các hình, các khối, biết thực hiện các thao tác đo...Để trẻ làm được điều đó trước hết người giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài điều này theo tôi nghĩ là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú, lôi cuốn hơn khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ và đặc biệt là được hoạt động với những đồ dùng đó.
Ví dụ: Chủ đề “Gia đình”
- Đề tài: Đếm đến 6 - nhận biêt nhóm đồ dùng có 6 đối tượng - chữ số 6. Với đề tài này tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng gia đình như ly, chén, đũa tôi cho các cháu gọi tên của từng đồ dùng, cho trẻ trẻ xếp đồ dùng theo yêu cầu của cô (ví dụ: cháu xếp hết số chén ra cho cô, với yêu cầu này thì trẻ phải lấy đúng chén xếp ra cho cô, nếu trẻ xếp được thì có nghĩa là trẻ đã hiểu được lời nói của cô), khi trẻ thực hiện được trẻ rất thích và hứng thú tham gia hoạt động tích cực hơn. Mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một số cháu chưa thực hiện được vì cháu chưa hiểu lời của cô, với tình huống đó tôi đã gợi ý cho trẻ để trẻ có thể thực hiện theo các bạn cùng với việc hướng dẫn trẻ làm thì cô không quên khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên đồ dùng hoặc thực hiện đúng theo yêu cầu của cô thì được tham gia trò chơi cùng với cô... Và trẻ nào cũng muốn mình được tham gia trò chơi cùng với cô và các bạn. 
* Hoạt động làm quen văn học:
Ở trẻ mầm non sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, chưa có ý thức trong hoạt động học tập. Nắm được nhược điểm này tôi đã luôn tìm tòi và sưu tầm những “nghệ thuật lên lớp” tạo ra mọi tình huống bất ngờ, hồi hộp, hay vui nhộnđể lôi cuốn sự tập trung chú ý của trẻ vào tiêt học, khơi gợi tính tò mò, thích tìm hiểu và khám phá ở trẻ. 
Ví dụ: Cốc ! cốc! cốc Dê con ngoan ngoãn mau mở cửa ra mẹ đã về rồi cho các con bú. (cô giả giọng chó sói hung ác) và muốn biết đó có phải là Dê mẹ không thì chúng mình hãy thật im lặng và lắng nghe xem Dê con có mở cửa không qua câu chuyện “Dê con nhanh trí” nhé.
- Với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, lúc hồi hộp, lúc gây cấn của cô đã lôi cuốn được trẻ vào giờ học và từ đó trẻ chăm chú lắng nghe cô kể và tiếp thu được lời kể của cô giáo. Cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện.
- Để cháu nhớ và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể kể nhiều lần bằng nhiều hình thức, khi kể cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ, giọng nói, hành động của từng nhân vật một cách rõ ràng, phù hợp với tính cách của từng nhân vật để trẻ có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu là nhân vật hung dữ
Ví dụ: Nhân vật Dê mẹ thì ta thể hiện giọng nhẹ nhàng, hiền lành
Nhân vật Dê con khi nói chuyện với mẹ thì giọng ngây thơ trong sáng, còn khi nói chuyện với Chó sói thì giọng cứng rắn, gan dạ
Nhân vật Chó sói thì ta thể hiện giọng xảo quyệt
- Đối với đọc thơ tôi luôn tạo cho trẻ sự chú ý tập trung bằng giọng đọc diễn cảm và không quên thể hiện cử chỉ điệu bộ tiến hành cho trẻ đọc thơ bằng nhiều hình thức như (cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các nhân, đọc nối đuôi) và cứ sau mỗi lần trẻ thực hiện được cô không quên tặng quà hay tuyên dương trẻ
- Với những hình thức như vậy vốn từ tiếng Việt của trẻ đã tăng lên một cách rõ rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy tôi tiếp tục tìm tòi các biện pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu và tăng vốn từ tiếng Việt.
- Mỗi khi vào đầu giờ học tôi thường trò chuyện với các cháu, tạo cho các cháu sự thoải mái, không áp lực, tạo cho cháu sự hứng thú, sự tập trung khi nghe cô trò chuyện hoặc đọc thơ. không dừng lại ở đó trong những giờ kể chuyện tôi tập cho các cháu đóng kịch (vì đa số trẻ ở lớp tôi là con của những gia đình khó khăn về vật chất nên việc các cháu tiếp cận với những chương trình thiếu nhi trên ti vi còn hạn chế) nên khi đến lớp được tham gia đóng kịch giống trên ti vi đã làm cho các cháu vô cùng thích thú, và đây cũng là một hình thức giúp các cháu phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
* Hoạt động âm nhạc:
- Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm đó mà trong giờ hoạt động âm nhạc tôi đã dạy cho các cháu hát những bài hát theo chủ đề cũng như những bài hát trong chương trình mầm non Tổ chức cho các cháu cuộc thi “Đồ Rê Mí”, tập cho các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu tên mình và biểu diễn cho các bạn xem cứ lần lượt như vậy và tất cả các cháu đều được lên hát, bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát và càng sôi động hơn khi được nghe nhạc không lời và các cháu là những ca sĩ thể hiện bài hát, thông qua đó các cháu đã dần dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát điều này cho thấy các cháu có khả năng nghe và hiểu tiếng việt tốt.
* Hoạt động làm quen chữ cái:
- Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói
- Cô dẫn dắt tạo tình huống và giới thiệu hôm nay cô sẽ cùng với lớp mình làm quen với “những chữ cái dễ thương” hay “những chữ cái đáng yêu” nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô giới thiệu chữ cái, sau đó cô phân tích cấu tạo của chữ cái và cho trẻ phát âm chữ cái. Cô cho trẻ quan sát và nắm được đặc điểm của chữ cái và để khắc sâu hơn về đặc điểm, cấu tạo và nhận biết chính xác các chữ cái, tôi đã luôn tìm tòi, học hỏi và sưu tầm các trò chơi phù hợp với nội dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm được các chữ cái không những thế mà còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn,
Ví dụ: như trò chơi “ chiếc nón kỳ diệu” hay trò chơi “ bánh xe chữ cái” trẻ quay vào trúng chữ cái nào cho trẻ phát âm chữ cái đó, nếu trẻ phát âm chính xác cô tuyên dương và cho cả lớp cùng phát âm theo, nếu trẻ phát âm chưa chính xác cô có thể giúp trẻ bằng cách cô phát âm và cho trẻ phát âm lại
Như chúng ta đã biết trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt rất hạn chế. Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình chuẩn bị ngôn ngữ tiếng việt, kiến thức, kỹ năng trẻ ta cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái trong mọi hoạt động, không áp đặt trẻ, cho trẻ được tự do bày tỏ những tâm tư nguyện vọng của mình.
Biện pháp 4: Chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ
- Trên thực tế cho ta thấy trẻ đồng bào dân tộc thiểu số luôn có tâm lý sẵn sàng cho hoạt động lao động hơn là hoạt động học tập.
- Trẻ đồng bào dân tộc thiểu số tâm lý hay nhút nhác, luôn sợ hãi, ngại giao tiếp với người lạ, chưa có tâm lý sẵn sàng cho hoạt động học tập ở trường, thích theo bố mẹ đi rẫy bên cạnh đó môi trường giao tiếp xã hội của trẻ dân tộc thiểu số còn hạn hẹp, có những trẻ chưa được học qua chương trình mẫu giáo, trẻ dân tộc thiểu số tuy còn nhỏ nhưng đã phải tham gia vào các hoạt động tại gia đình như cõng em, chăn gia súc, nấu cơm
- Trước những khó khăn trên là một cô giáo mầm non điều trước tiên là chúng ta phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của trẻ trong lớp mình, sau khi đã nắm được hoàn cảnh gia đình của trẻ, giáo viên cần phải gặp và trao đổi với phụ huynh, tuyên truyền với họ về tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường mầm non, cung cấp cho phụ huynh những kiến thức cơ bản về nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ, phụ huynh cần tạo mọi điều kiện cho trẻ có một tâm lý thoải mái khi ở nhà cũng như khi đến trường mầm non.
- Với những trẻ nhút nhác, rụt rè, sợ hãichúng ta cần tạo sự gần gũi, thân thương với trẻ, thường xuyên trò chuyện và lắng nghe những suy nghĩ của trẻ, cho trẻ một cảm giác ấm áp, an toàn khi ở bên cô, không phân biệt đối xử với trẻ, dành tình thương cho trẻ để trẻ cảm nhận được khi đến trường cô giáo thương yêu mình cũng giống như mẹ ở nhà. Với những trẻ sẵn sàng tâm lý cho hoạt động lao động hơn hoạt động học tập thì chúng ta nên giao nhiệm vụ tương tự như những việc trẻ thường làm trong hoạt động lao động ở nhà.
Ví dụ: Thực hiện chủ đề “Gia đình” khi trẻ tham gia hoạt động góc cô có thể tạo tình huống như ở gia đình trẻ, trẻ có thể giúp mẹ dỗ em bé, bế em, hay trẻ có thể giúp mẹ nấu cơm, quét nhàvà chắc chắn khi giao những nhiệm vụ này trẻ sẽ làm được vì đây là việc làm hàng ngày trẻ làm ở nhà, khi trẻ thực hiện tốt các nhiệm vụ trên cô giáo khen động viên khuyến khích trẻ, đây sẽ là động lực cổ vũ cho trẻ, tương tự chúng ta luôn tạo mọi tình huống trong các hoạt động để trẻ giải quyết, điều này sẽ góp phần giúp trẻ luôn có tâm lý sẵn sàng cho cả hoạt động lao động cũng như hoạt động học tập, không những vậy mà trong quá trình giải quyết nhiệm vụ cũng giúp trẻ phát triền những đức tính tốt như: rèn luyện tính tự giác, ý thức tổ chức kỹ luật, tính tự lập, biết thương yêu em nhỏ và bạn bè
Nhưng đức tính này rất cần thiết cho lứa tuổi trẻ mẫu giáo song nó cũng không kém phần quan trọng với trẻ khi trẻ lên lớp một, vì bản chất của hai bậc học khác nhau, ở trường mầm non trẻ luôn được gần gũi bên cô, cô cùng trẻ tham gia các hoạt động, nhưng khi lên tiều học thì không phải lúc nào trẻ cũng ở bên cô mà có lúc phải tự giải quyết nhiệm vụ một mình, hoặc trẻ tự chơi hay chơi tự do với các bạn mà không có cô giáo bên cạnh.
Chuẩn bị tốt cho trẻ về mặt tâm lý là điều vô cùng quan trọng, trẻ có một tinh thần tốt, luôn thoải mái, vui vẽ, hứng thú tham gia mọi hoạt động, và giải quyết tốt nhiệm vụ cô giao, điều này sẽ giúp trẻ có một niềm tin cũng như sự sẵn sàng để bước vào lớp một mà không còn rụt rè, lo sợ.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp nêu trong đề tài đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, nó bổ trợ cho nhau, tạo thành một mối liên kết với nhau, trẻ “học mà chơi, chơi mà học”. Mỗi giải pháp, biện pháp đều có tác dụng riêng nhưng đều có tác dụng hỗ trợ cho nhau và có mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp là cùng chung một nhiệm vụ cung cấp các kiến thức, giúp trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động một cách tích cực sáng tạo, linh hoạt, trải nghiệm trong học tập. 
Ví dụ: muốn trẻ trong độ tuổi ra lớp trước hết chúng ta phải tuyên truyền, vận động phụ huynh đưa con em mình đến trường, khi trẻ đã đến trường thì tất cả trẻ đều được tham gia vào các hoạt động tại lớp, để trẻ tham gia hoạt động một cách tích cực, hứng thú, không mệt mỏi thì đòi hỏi trẻ phải có một thể lực tốt, bên cạnh đó trẻ phải nghe, nói, và hiểu được tiếng phổ thông thì trẻ mới hiểu được cô giáo nói gì và mình sẽ phải làm những gì? Làm như thế nào? không những vậy mà trẻ cũng cần phải có một tâm lý thoải mái, vui vẽ, hứng thúthì trẻ mới hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng
- Kết quả khảo nghiệm:
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự chuyển biến một cách rõ rệt và đạt kết quả như sau :
Thời gian
 Đầu năm
Cuối năm
Kiến thức của trẻ
Kiến thức của trẻ
 Đạt
9 trẻ = 36%
22 trẻ = 88%
 Chưa đạt
16 trẻ = 64%
3 trẻ = 12%
- Trước hết là sự nhận thức của phụ huynh

Tài liệu đính kèm:

  • doc_oanh_mot_so_bien_phap_chuan_bi_tam_the_cho_tre_dong_bao_dan_toc_3932_2021813.doc