Như đã trình bày ở trên, GDPTBV mặc dù đã có hơn 10 năm tồn tại kể từ sau hội nghị Rio nhưng việc phát triển nó với mức độ mong muốn ở nhiều nước trên thế giới vẫn chưa đạt được, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là một trong số gần 200 quốc gia tham gia Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Môi trường và Phát triển được tổ tức tại Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và hội nghị PTBV Rio+10 tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002. Tại các hội nghị này, Việt Nam đã cam kết sẽ xây dựng và thực hiện CT nghị sự 21 về PTBV. Theo đó, chính phủ đã giao cho bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng Chương trình nghị sự 21 (Agenda21) về PTBV ở Việt Nam.
Ngày 11 tháng 11 năm 2005, nhằm đáp ứng “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững” do LHQ khởi xướng, thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 285/2005/QĐ-TTg cho phép thành lập Ủy ban quốc gia “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững” của Việt Nam tại Hà Nội. Phát biểu tại buổi lễ, thủ tướng khẳng định việc triển khai “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững” ở Việt Nam đòi hỏi phải xây dựng tư duy đổi mới từ cách nhìn nhận đối với GD tới đổi mới nội dung và phương pháp GD, nhằm thực hiện thành công 3 lĩnh vực phát triển kinh tế, phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường. Mục tiêu của “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững" tại Việt Nam là:
- Tích hợp các nội dung PTBV vào hệ thống GD các cấp.
- Mang lại cho mọi người cơ hội được tiếp cận một nền GD có chất lượng cao và được học hỏi những giá trị, cách ứng xử và lối sống cần thiết cho một tương lai bền vững.
- Tích hợp GDPTBV vào các chính sách, chiến lược và kế hoạch phát triển KT – XH.
- Thúc đẩy cải cách GD và tăng cường sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa sự tham gia vào GDPTBV ở cấp quốc gia, cấp khu vực và quốc tế.
Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng phải đối mặt với những vấn đề của PTBV và coi GD là chìa khóa và công cụ cho sự PTBV. Các nội dung của PTBV đã được tích hợp, lồng ghép vào các môn học, trong đó điển hình như môn Địa lí. Tuy nhiên, do những hạn chế về thời lượng CT, các điều kiện dạy học nên nhiều GV còn ít quan tâm đến việc GDPTBV cho HS.
ự vật, hiện tượng Địa lí kinh tế, xã hội đang diễn ra trên quy mô toàn cầu và khu vực, phù hợp với khả năng của HS. Về thái độ, hành vi: Tiếp tục phát triển: Thái độ quan tâm tới những vấn đề đang liên quan đến Địa lí như dân số, môi trường, hòa bình – an ninh Thái độ đúng đắn trước các hiện tượng KT – XH của một số quốc gia, khu vực. Ý chí vươn lên để đóng góp vào sự nghiệp phát triển KT – XH của đất nước. Về cấu trúc Nội dung CT Địa lí lớp 11 đề cập đến đặc điểm KT – XH của thế giới, một số khu vực và quốc gia. Những kiến thức về Địa lí thế giới phần nào đã được đưa vào CT Địa lí lớp 7, 8 của cấp THCS qua các nội dung: thành phần nhân văn của môi trường, các môi trường Địa lí, thiên nhiên và con người các châu lục, ở CT Địa lí lớp 10 với các nội dung về Địa lí tự nhiên và Địa lí KT – XH đại cương đã tạo cơ sở cho CT Địa lí KT – XH thế giới ở lớp 11. CT Địa lí lớp 11 có cấu trúc như sau: Phần một: Khái quát về nền KT – XH thế giới: Phần này trình bày các vấn đề chung nhất, phản ánh trình độ và xu thế phát triển KT – XH toàn cầu cũng như một số vấn đề nảy sinh đang được nhân loại quan tâm. Đây là vấn đề đã được đặt ra trong CT cải cách trước đây, song ở CT mới này được nhìn nhận trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hóa diễn ra quyết liệt hơn, hiện thực hơn và đang tác động mạnh tới KT – XH Việt Nam. Để có cái nhìn đầy đủ hơn về thế giới, trong phần này còn đề cập tới một số vấn đề KT - XH của châu Phi, Mĩ La tinh và của khu vực Tây Nam Á, khu vực Trung Á. Đây là những khu vực tập trung các nước đang phát triển mà CT Địa lí cấp THPT trước đây chưa có điều kiện đề cập đến. Phần hai: Địa lí khu vực và quốc gia. CT Địa lí 11 trình bày đặc điểm Địa lí của một số khu vực và quốc gia, điển hình về phát triển KT – XH như Liên minh Châu Âu, khu vực Đông Nam Á, các quốc gia: Hoa Kì, Liên bang Nga, Brazil, Đức 3.1.2.Về sách giáo khoa Địa lí 11 SGK Địa lí lớp 11 với chức năng là phương tiện đắc lực cho việc tổ chức hoạt động tích cực và chủ động của HS, đồng thời vẫn thể hiện được đặc trưng bộ môn, phù hợp với khả năng nhận thức của HS, đảm bảo tính hiện đại, cập nhật của khoa học Địa lí, thực hiện tích hợp một số yêu cầu GD mang tính xã hội vào các bài Địa lí (GD môi trường, GD dân số, GDPTBV). Các yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp trong cuốn sách cũng được chú ý. Đó là: Định hướng hoạt động học tập của HS. Tạo điều kiện để HS được làm việc thuận lợi. Khai thác tối đa sự hiểu biết về kiến thức Địa lí mà HS đã tích lũy được. Phát huy tính tích cực, hoạt động tự lực, sáng tạo của HS. Với cấu trúc SGK được trình bày theo từng phần, bài, mục rất logic và chặt chẽ đã phần nào chuyển tải được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, tạo điều kiện cho GV và HS phát huy tính tích cực, chủ động trong giờ học lên lớp. 3.2. Khả năng khai thác nội dung GDPTBV để tổ chức các hoạt động ngoại khóa GDPTBV qua chương trình, sách giáo khoa Địa lí 11 CT, SGK Địa lí 11 như đã được trình bày ở trên là tập trung vào các đặc điểm Địa lí KT - XH tiêu biểu của thế giới ở các khu vực và quốc gia. Do đó, có thể khai thác được các nội dung GDPTBV để tổ chức các hoạt động ngoại khóa thông qua CT, SGK Địa lí 11. Có thể tóm tắt nội dung GDPTBV khai thác trong SGK Địa lí 11 trong bảng sau: Nội dung Địa lí Nội dung GDPTBV Phần A: khái quát nền KT – XH thế giới - Sự tương phản về trình độ phát triển KT –XH của các nhóm nước. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. - Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế. - Một số vấn đề mang tính toàn cầu của châu lục và khu vực. Kiến thức Kĩ năng - Các vấn đề của thời đại toàn cầu hóa: + Hòa bình và an ninh. + Môi trường và tài nguyên. + Sự biến đổi khí hậu. + Nghèo đói + Đô thị hóa bền vững. + Kinh tế thị trường - Phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. - Đa dạng văn hóa và hiểu biết về giao thoa văn hóa. - Thu thập tài liệu, xử lí, phân tích, tổng hợp, so sánh và đánh giá về các vấn đề PTBV của thế giới, khu vực và quốc gia. - Viết báo cáo về các vấn đề bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của thế giới. - Tổ chức và tham gia các hoạt động với nội dung GDPTBV: tuyên truyền, cổ động, dạ hội, CLB PTBV... Phần B: Địa lí khu vực và quốc gia Các đặc điểm về tự nhiên, dân cư, xã hội và kinh tế tiêu biểu của một số khu vực và quốc gia trên thế giới. Như vậy, có thể thấy với những nội dung mà CT, SGK Địa lí 11 đề cập tới, người GV có thể khai thác rất tốt các nội dung GDPTBV để thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy học nói chung và dạy học ngoại khóa nói riêng. 4. Thực trạng GDPTBV và việc tổ chức hoạt động ngoại khóa GDPTBV qua môn Địa lí lớp 11 Như đã trình bày ở trên, GDPTBV mặc dù đã có hơn 10 năm tồn tại kể từ sau hội nghị Rio nhưng việc phát triển nó với mức độ mong muốn ở nhiều nước trên thế giới vẫn chưa đạt được, trong đó có Việt Nam. Việt Nam là một trong số gần 200 quốc gia tham gia Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Môi trường và Phát triển được tổ tức tại Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và hội nghị PTBV Rio+10 tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002. Tại các hội nghị này, Việt Nam đã cam kết sẽ xây dựng và thực hiện CT nghị sự 21 về PTBV. Theo đó, chính phủ đã giao cho bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng Chương trình nghị sự 21 (Agenda21) về PTBV ở Việt Nam. Ngày 11 tháng 11 năm 2005, nhằm đáp ứng “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững” do LHQ khởi xướng, thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 285/2005/QĐ-TTg cho phép thành lập Ủy ban quốc gia “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững” của Việt Nam tại Hà Nội. Phát biểu tại buổi lễ, thủ tướng khẳng định việc triển khai “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững” ở Việt Nam đòi hỏi phải xây dựng tư duy đổi mới từ cách nhìn nhận đối với GD tới đổi mới nội dung và phương pháp GD, nhằm thực hiện thành công 3 lĩnh vực phát triển kinh tế, phát triển văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường. Mục tiêu của “Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững" tại Việt Nam là: Tích hợp các nội dung PTBV vào hệ thống GD các cấp. Mang lại cho mọi người cơ hội được tiếp cận một nền GD có chất lượng cao và được học hỏi những giá trị, cách ứng xử và lối sống cần thiết cho một tương lai bền vững. Tích hợp GDPTBV vào các chính sách, chiến lược và kế hoạch phát triển KT – XH. Thúc đẩy cải cách GD và tăng cường sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa sự tham gia vào GDPTBV ở cấp quốc gia, cấp khu vực và quốc tế. Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng phải đối mặt với những vấn đề của PTBV và coi GD là chìa khóa và công cụ cho sự PTBV. Các nội dung của PTBV đã được tích hợp, lồng ghép vào các môn học, trong đó điển hình như môn Địa lí. Tuy nhiên, do những hạn chế về thời lượng CT, các điều kiện dạy học nên nhiều GV còn ít quan tâm đến việc GDPTBV cho HS. Kết quả điều tra về nhận thức, thái độ và hành vi của HS về GDPTBV: Chúng tôi đã dùng phiếu điều tra để tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của HS về việc học tập GDPTBV qua môn Địa lí, cụ thể như sau: chúng tôi đã soạn ra 10 câu hỏi mỗi loại để kiểm tra về nhận thức, thái độ và hành vi của HS lớp 11 tại ba trung tâm GDNN-GDTX là Tam Đảo (huyện Tam Đảo), Yên Lạc (huyện Yên Lạc) và Phúc Yên (thành phố Phúc Yên) của tỉnh Vĩnh Phúc (câu hỏi điều tra xem phần phụ lục) và có thang điểm đánh giá như sau: Trung tâm Số HS Nhận thức Thái độ Hành vi ĐĐ TĐĐĐ CĐĐ CĐ TC Tc TC Tc SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % TĐ YL PY 87 90 83 0 3 7 0 3.3 8.4 15 23 21 17.2 25.6 25.3 46 52 45 52.9 57.8 54.2 26 12 10 29.9 13.3 12.1 45 55 51 51.7 61.1 61.4 42 35 32 48.3 38.9 38.6 26 32 36 29.9 35.6 43.4 61 58 47 70.1 64.4 56.6 Tổng số 260 10 3.8 59 22.7 143 55 48 18.5 151 58.1 109 41.9 94 36.2 166 63.8 Chú thích: - Các chữ viết tắt: TĐ : Tam Đảo YL : Yên Lạc PY: Phúc Yên ĐĐ: Đầy đủ TĐĐĐ: Tương đối đầy đủ CĐĐ: Chưa đầy đủ CĐ: Chưa nhận thức được TC: Tích cực Tc: Tiêu cực SL: Số lượng - Mức độ nhận thức: + Đầy đủ: Trả lời đúng 9 – 10 câu. + Tương đối đầy đủ: Trả lời đúng 7 – 8 câu. + Chưa đầy đủ: Trả lời đúng 5 – 6 câu. + Chưa nhận thức được: Trả lời đúng dưới 5 câu. - Thái độ: + Tích cực: Trả lời đúng ít nhất 5 câu. + Tiêu cực: Trả lời đúng chưa đến 5 câu - Hành vi: + Tích cực: Trả lời đúng ít nhất 5 câu. + Tiêu cực: Trả lời đúng chưa đến 5 câu. Nhận xét: - Về nhận thức: Qua số liệu điều tra có thể thấy, phần lớn số HS được hỏi có nhận thức chưa đầy đủ về GDPTBV qua môn học (chiếm 55% tổng số HS được hỏi), số HS có nhận thức đầy đủ và tương đối đầy đủ chưa nhiều (chiếm khoảng 1/3 số HS được hỏi), số HS chưa nhận thức được về GDPTBV còn chiếm tới 18,5%, thậm chí có HS khi được hỏi đã không trả lời được những khái niệm cơ bản về PTBV hay những kiến thức đã được học trong chương trình Địa lí lớp 11. - Về thái độ: Đa số các em được hỏi có thái độ tích cực đối với vấn đề GDPTBV qua môn học (chiếm hơn 58% tổng số HS được hỏi). - Về hành vi: Qua số liệu điều tra cho thấy, mặc dù các em đã có nhận thức về GDPTBV, có thái độ tích cực nhưng lại chưa có hành vi đúng đắn và tích cực. Ví dụ: có nhiều em khi được hỏi là có tham gia vào công tác PTBV ở địa phương không thì trả lời là không hoặc ít tham gia, có em lại cho rằng đó không phải là nhiệm vụ của mình... Nguyên nhân: Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên chúng tôi được biết, phần lớn khi học về Địa lí lớp 11 các em mới chỉ được GV truyền đạt những kiến thức Địa lí chứ ít khi lồng ghép nội dung GDPTBV, nếu có thì cũng chỉ là kiến thức GD môi trường. Những kiến thức mà các em có được về GDPTBV chủ yếu do các em được biết qua các phương tiện thông tin như ti vi, đài báo, Internet,... Chính vì vậy mà có sự chênh lệch về kết quả điều tra giữa HS các trung tâm, HS ở trung tâm Tam Đảo (thuộc huyện Tam Đảo - một huyện miền núi của tỉnh Vĩnh Phúc) điều kiện để biết các thông tin trên còn nhiều khó khăn, do đó mà số HS nhận thức được về các nội dung của GDPTBV ít hơn số HS các trung tâm Yên Lạc , Phúc Yên – HS ở các khu vực này có nhiều điều kiện để thu thập những thông tin cần thiết. Mặc khác, theo điều tra chúng tôi cũng được biết
Tài liệu đính kèm: