Để bài làm mạch lạc, đối với mỗi phần (giống nhau, khác nhau) cần phải so sánh lần lượt theo từng tiêu chí. Khi trình bày sự giống nhau, cần làm rõ các đối tượng phải so sánh có sự tương đồng như thế nào theo từng tiêu chí. Sau đó, tiếp tục làm tương tự như vậy đối với phần khác nhau.
Khi làm bài, có thể có 2 cách thể hiện. Cách thứ nhất là chia đôi tờ giấy thi theo chiều dọc, một bên trình bày sự giống nhau và bên kia là sự khác nhau. Cách này không nên sử dụng vì sự hạn hẹp về diện tích của phần nửa tờ giấy thi. Cách thứ hai là lần lượt phân tích sự giống nhau, rồi đến sự khác nhau theo từng tiêu chí. Nên chọn cách này vì có thể trình bày được chi tiết, đầy đủ nội dung cần phải so sánh, mà không bị giới hạn bởi tờ giấy thi.
Một điểm nữa cần lưu ý là tương quan về lượng kiến thức phải sử dụng và về cả số điểm giữa hai phần (giống nhau, khác nhau). Ở phần giống nhau, lượng kiến thức thường ít hơn, bởi vì đây là những điểm chung, tương đồng giữa các đối tượng phải so sánh. Vì thế, trong cơ cấu tổng số điểm dành cho cả câu hỏi, phần này chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ (thườngvào khoảng 1/3 tổng số điểm). Ngược lại, ở phần khác nhau, lượng kiến thức thường nhiều hơn và số điểm cũng cao hơn (thườngvào khoảng 2/3 tổng số điểm).
Đối với câu hỏi so sánh, có 2 trường hợp thí sinh dễ bị mất điểm do bỏ sót ý với những nguyên nhân hầu như trái ngược nhau. Trường hợp thứ nhất là ở phần giống nhau. Để tìm ra sự tương đồng, lượng kiến thức sử dụng tuy ít nhưng lại đòi hỏi mức độ khái quát hoá cao. Đó chính là lí do dễ dẫn đến bỏ sót ý và mất điểm. Trường hợp thứ hai, ngược lại, là ở phần khác nhau. Ở phần này đòi hỏi phải có sự chi tiết, tỉ mỉ về kiến thức cơ bản để lấp đầy các tiêu chí giữa hai (hay nhiều) đối tượng phải so sánh. Nếu như không lưu ý đầy đủ thì cũng dễ sót ý và mất điểm.
tâm hàng đầu hiện nay ở nước ta?". Mấu chốt của câu hỏi là ở cụm từ "vấn đề được quan tâm hàng đầu". Tại sao lại như vậy? Theo quy trình, cần tái hiện kiến thức đã có (bài 16 ban Chuẩn hay bài 21 ban Nâng cao) liên quan đến đặc điểm dân số và phân bố dân cư của nước ta. Các kiến thức cơ bản đó là: đông dân, nhiều thành phần dân tộc; dân số tăng còn nhanh, cơ cấu dân số trẻ; phân bố chưa hợp lí. Trên cơ sở này, có thể đưa ra 3 lí do chủ yếu: đặc điểm dân số của nước ta (đông, tăng còn nhanh, dân số trẻ); đặc điểm phân bố (không đồng đều, chưa hợp lí) và hậu quả to lớn của nó (đối với phát triển kinh tế, xã hội, chất lượng cuộc sống, tài nguyên môi trường). 2. 2. Dạng so sánh 2.2.1. Yêu cầu Dạng câu hỏi so sánh là dạng tương đối khó, nhưng nếu như nắm vững cách giải thì không phải là không thể đạt được điểm cao. Đối với dạng này, cần đảm bảo được một số yêu cầu chủ yếu sau đây: - Trước hết, phải nắm vững kiến thức cơ bản. Đây là yêu cầu không chỉ đối với dạng so sánh, mà còn với tất cả các dạng câu hỏi khác, bởi vì không có "nguyên liệu" thì mọi cách "chế biến" đều là vô nghĩa. - Sau đó, cần biết cách hệ thống hoá, phân loại và sắp xếp kiến thức để dễ dàng cho việc so sánh. Trong phạm vi chương trình và SGK Địa lí 12 (ban Chuẩn và ban Nâng cao), các câu hỏi thuộc dạng so sánh liên quan cả đến các hiện tượng địa lí tự nhiên lẫn địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhìn chung, các câu hỏi có thể yêu cầu so sánh hai (hay nhiều) vùng thuộc khu vực đồi núi (thí dụ, Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam) hoặc các miền địa lí tự nhiên cũng như hai (hay nhiều) vùng thuộc lĩnh vực địa lí kinh tế - xã hội (như vùng chuyên canh, vùng kinh tế). Các câu hỏi có thể chỉ yêu cầu so sánh một khía cạnh nào đó của các vùng, thí dụ như địa hình đối với các miền tự nhiên hoặc thế mạnh nguồn lực đối với các vùng chuyên canh... Vì thế, yêu cầu này đòi hỏi phải sắp xếp kiến thức theo từng nhóm để tiện cho việc xác định sự giống nhau và khác nhau. - Cuối cùng, biết cách khái quát hoá kiến thức để có thể tìm ra các tiêu chí so sánh. Việc xác định được các tiêu chí so sánh phù hợp với yêu cầu câu hỏi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm giúp cho bài làm của thí sinh mạch lạc và đỡ bỏ sót ý. 2.2.2. Phân loại Phân loại các câu hỏi so sánh chỉ mang tính chất tương đối, nhưng lại có giá trị thực dụng cao. Về đại thể, có thể phân tất cả các câu hỏi so sánh thành 2 loại: - Loại câu hỏi so sánh hai (hay nhiều) chỉnh thể với nhau (gọi tắt là so sánh chỉnh thể). Chỉnh thể ở đây có thể hiểu như là một đối tượng địa lí (tự nhiên hoặc kinh tế - xã hội) tương đối hoàn chỉnh như vùng hay miền địa lí tự nhiên, vùng thuộc lĩnh vực địa lí kinh tế - xã hội (vùng chuyên canh, vùng kinh tế) hoặc ngành kinh tế cũng như một nội dung trọng vẹn nào đó về địa lí dân cư. Với các chỉnh thể này, việc so sánh phải đa chiều, toàn diện. Có thể đưa ra một số thí dụ sau đây để minh hoạ: + So sánh 2 vùng núi: Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam. + So sánh đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. + So sánh miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ với miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. + So sánh 3 vùng chuyên canh cây công nghiệp hàng đầu của nước ta: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Trung du và miền núi Bắc Bộ. + So sánh 2 trung tâm công nghiệp: Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh + So sánh 2 ngành công nghiệp trọng điểm đang được phát triển mạnh ở nước ta hiện nay: công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. - Loại câu hỏi so sánh một bộ phận (hay một phần, một khía cạnh) của hai (hay nhiều) chỉnh thể (gọi tắt là so sánh bộ phận). Loại câu hỏi này tương đối phổ biến trong các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng môn Địa lí. Yêu cầu của nó đòi hỏi sự so sánh không phải toàn bộ chỉnh thể, mà chỉ là một bộ phận nào đó (hoặc một khía cạnh) của các chỉnh thể với nhau. Liên quan đến câu hỏi so sánh bộ phận có cả phần địa lí tự nhiên Việt Nam và phần địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Xin nêu một vài thí dụ sau đây: + So sánh địa hình của 2 vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc. + So sánh đặc điểm địa hình của 2 đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. + So sánh địa hình và khí hậu giữa miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ với miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. + So sánh thế mạnh để phát triển lương thực, thực phẩm giữa Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. + So sánh nguồn lực để phát triển cây công nghiệp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. + So sánh việc phát triển các ngành kinh tế biển giữa Duyên hải Nam Trung Bộ với Đông Nam Bộ. + So sánh sự phân bố dân cư giữa Trung du và miền núi Bắc Bộ với Tây Nguyên... 2.2.3. Hướng dẫn cách giải - Hướng dẫn chung Mặc dù các câu hỏi thuộc dạng so sánh được chia thành 2 loại, nhưng cách giải đều có cùng một quy trình. Dù đó là so sánh chỉnh thể hay so sánh bộ phận đều phải theo quy trình gồm có 3 bước sau đây: + Bước thứ nhất: Tìm sự giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng cần phải so sánh. Về nguyên tắc, đối với câu hỏi so sánh nhất thiết phải làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng. Trước hết cần đọc kĩ câu hỏi và xem yêu cầu của nó là gì. Có thể có 2 cách hỏi và tuỳ theo từng cách hỏi cụ thể mà chọn cách trả lời cho thích hợp. Ở cách thứ nhất, yêu cầu của câu hỏi là so sánh (thí dụ, so sánh 2 vùng núi: Đông Bắc và Tây Bắc, hoặc so sánh 2 vùng chuyên canh cây công nghiệp: Tây Nguyên với Trung du và miền núi Bắc Bộ). Khi câu hỏi yêu cầu so sánh thì bắt buộc phải làm nổi bật sự giống nhau và khác nhau. Cũng thuộc cách hỏi này, nhưng câu hỏi rõ ràng hơn, cụ thể hơn khi yêu cầu hãy tìm sự giống nhau và khác nhau (thí dụ, tìm sự giống nhau và khác nhau về điều kiện hình thành, đặc điểm địa hình và đất giữa đồng bằng sông Hồng với đồng bằng sông Cửu Long). Như vậy, việc phải làm rõ sự giống nhau và khác nhau là lẽ đương nhiên, không còn gì phải bàn cãi. Ở cách thứ hai, câu hỏi chỉ yêu cầu tìm sự khác nhau (hoặc giống nhau) mà thôi. Thí dụ, địa hình vùng núi Trường Sơn Bắc và vùng núi Trường Sơn Nam khác nhau như thế nào? hoặc tìm sự khác nhau về các nguồn lực giữa 3 vùng chuyên canh cây công nghiệp hàng đầu của nước ta là Trung du và miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên với Đông Nam Bộ. Rõ ràng, tuỳ theo yêu cầu câu hỏi mà thí sinh sẽ có định hướng trả lời. Bước thứ nhất được coi là quan trọng và không thể thiếu được trong quy trình xử lí câu hỏi. Tuy nhiên, ý nghĩa của nó chỉ giới hạn ở việc định hướng cách giải (tìm cả sự giống nhau và khác nhau, hoặc chỉ 1 trong 2). Sở dĩ phải trình bày bước này vì khi gặp loại câu hỏi so sánh, nhiều thí sinh không biết cách làm, dù rằng thuộc bài. Do có thể không hiểu câu hỏi nên các đối tượng so sánh lần lượt được trình bày theo kiểu thuộc bài. Chẳng hạn, đối với câu hỏi yêu cầu so sánh 2 vùng chuyên canh cây công nghiệp (thí dụ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên) thì đầu tiên thí sinh trình bày vùng Đông Nam Bộ (với các kiến thức nhớ được, thậm chí rất thuộc bài như trong SGK), sau đó là đến vùng Tây Nguyên. Cách trả lời như vậy không phù hợp với câu hỏi so sánh và được đánh giá là không hiểu câu hỏi, thậm chí là lạc đề. + Bước thứ hai: Xác định các tiêu chí để so sánh. Xác định các tiêu chí để so sánh là bước có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bài thi bởi vì trình bày sự giống nhau và khác nhau theo các tiêu chí giúp cho bài làm trở nên mạch lạc và giảm thiểu việc bỏ sót ý. Thực tiễn chỉ ra rằng, nếu bỏ qua bước này bài làm sẽ rất lộn xộn, bỏ sót nhiều ý và kết quả là điểm rất thấp. Trong quá trình làm bài, mặc dù có thể đã nhận dạng được câu hỏi, nhưng do không xác định các tiêu chí để so sánh nên thường rơi vào tình trạng nhớ đến đâu viết đến đấy. Muốn xác định tương đối chính xác các tiêu chí để so sánh, cần phải biết hệ thống và khái quát hoá kiến thức đã học. Mặt khác, cũng cần chú ý đến loại câu hỏi (so sánh chỉnh thể hay so sánh bộ phận) để lựa chọn tiêu chí cho phù hợp. Rõ ràng, đối với dạng câu hỏi so sánh việc xác định được các tiêu chí có tầm quan trọng đặc biệt. + Bước thứ ba: "Lấp đầy" các tiêu chí bằng kiến thức đã học. Sau khi định hướng trả lời và xác định được tiêu chí, bước cuối cùng là dùng kiến thức cơ bản đã học để "lấp đầy" các tiêu chí được lựa chọn. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, đối với câu hỏi so sánh nên đưa ra khoảng 3 tiêu chí. Nếu có quá ít tiêu chí thì dễ bị sót ý, nhưng nhiều tiêu chí quá dẫn tới sự phức tạp hoá không cần thiết, hay không đủ kiến thức để lấp đầy hết các tiêu chí. Tất nhiên, việc quyết định số lượng tiêu chí phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của câu hỏi. Để bài làm mạch lạc, đối với mỗi phần (giống nhau, khác nhau) cần phải so sánh lần lượt theo từng tiêu chí. Khi trình bày sự giống nhau, cần làm rõ các đối tượng phải so sánh có sự tương đồng như thế nào theo từng tiêu chí. Sau đó, tiếp tục làm tương tự như vậy đối với phần khác nhau. Khi làm bài, có thể có 2 cách thể hiện. Cách thứ nhất là chia đôi tờ giấy thi theo chiều dọc, một bên trình bày sự giống nhau và bên kia là sự khác nhau. Cách này không nên sử dụng vì sự hạn hẹp về diện tích của phần nửa tờ giấy thi. Cách thứ hai là lần lượt phân tích sự giống nhau, rồi đến sự khác nhau theo từng tiêu chí. Nên chọn cách này vì có thể trình bày được chi tiết, đầy đủ nội dung cần phải so sánh, mà không bị giới hạn bởi tờ giấy thi. Một điểm nữa cần lưu ý là tương quan về lượng kiến thức phải sử dụng và về cả số điểm giữa hai phần (giống nhau, khác nhau). Ở phần giống nhau, lượng kiến thức thường ít hơn, bởi vì đây là những điểm chung, tương đồng giữa các đối tượng phải so sánh. Vì thế, trong cơ cấu tổng số điểm dành cho cả câu hỏi, phần này chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ (thườngvào khoảng 1/3 tổng số điểm). Ngược lại, ở phần khác nhau, lượng kiến thức thường nhiều hơn và số điểm cũng cao hơn (thườngvào khoảng 2/3 tổng số điểm). Đối với câu hỏi so sánh, có 2 trường hợp thí sinh dễ bị mất điểm do bỏ sót ý với những nguyên nhân hầu như trái ngược nhau. Trường hợp thứ nhất là ở phần giống nhau. Để tìm ra sự tương đồng, lượng kiến thức sử dụng tuy ít nhưng lại đòi hỏi mức độ khái quát hoá cao. Đó chính là lí do dễ dẫn đến bỏ sót ý và mất điểm. Trường hợp thứ hai, ngược lại, là ở phần khác nhau. Ở phần này đòi hỏi phải có sự chi tiết, tỉ mỉ về kiến thức cơ bản để lấp đầy các tiêu chí giữa hai (hay nhiều) đối tượng phải so sánh. Nếu như không lưu ý đầy đủ thì cũng dễ sót ý và mất điểm. - Hướng dẫn cách giải cụ thể: + Loại câu hỏi so sánh chỉnh thể Yêu cầu của loại câu hỏi này là phải so sánh toàn bộ hai (hay nhiều) chỉnh thể với nhau. Như đã nêu ở phần trên, chỉnh thể đó có thể là vùng, miền địa lí tự nhiên hoặc vùng kinh tế (vùng chuyên canh, vùng kinh tế) hoặc ngành kinh tế... Quy trình xử lí loại câu hỏi này được thực hiện theo 3 bước. Các hướng dẫn ở đây chỉ tập trung vào việc xác định tiêu chí, còn lấp đầy các tiêu chí (hay nói cách khác là nắm vững kiến thức cơ bản) thì phụ thuộc vào thí sinh. Khó có thể có một mẫu tiêu chí chung cho tất cả các chỉnh thể (địa lí tự nhiên, địa lí kinh tế - xã hội). Dưới đây chỉ xin gợi ý các tiêu chí đối với 2 chỉnh thể về địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam là ngành (phân ngành) kinh tế và vùng lãnh thổ (vùng kinh tế, vùng chuyên canh). Khi so sánh hai (hay nhiều) ngành với nhau, có thể gợi ý một số tiêu chí dưới đây: • Vai trò của ngành trong nền kinh tế (của cả nước hoặc của vùng); • Nguồn lực phát triển (hay còn gọi là điều kiện hoặc các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển và phân bố của ngành); • Tình hình phát triển; • Cơ cấu (ngành, lãnh thổ); • Phân bố (hay phân hoá theo lãnh thổ); • Hướng phát triển Các tiêu chí về ngành và về vùng có nhiều điểm tương đồng. Khi so sánh hai (hay nhiều) vùng lãnh thổ, có thể tham khảo các gợi ý sau đây: • Vai trò, quy mô hay vị trí địa lí của vùng; • Nguồn lực (hay điều kiện) phát triển; • Hướng chuyên môn hoá; • Tình hình phát triển các ngành trong vùng; • Phân bố; • Hướng phát triển Cần lưu ý là hai mẫu trên đưa ra các gợi ý tối đa. Trên thực tế, không phải lúc nào cũng sử dụng tất cả các tiêu chí này để so sánh. Phụ thuộc vào câu hỏi, có thể linh hoạt và lựa chọn khoảng 3 tiêu chí sao cho thích hợp nhất. Trong số các tiêu chí, nên chú ý đến nguồn lực (điều kiện) để phát triển, bởi vì tiêu chí này cần lượng kiến thức rất lớn. Vì thế, nếu yêu cầu phải so sánh hai (hay nhiều) ngành hoặc vùng lãnh thổ, cần dành thời gian thích đáng để so sánh tiêu chí nguồn lực nhằm tránh sót ý và đạt được phần điểm cao nhất cho câu hỏi. Ngoài loại câu hỏi có thể xác định các tiêu chí theo mẫu như trên đã trình bày còn có loại câu hỏi mà việc xác định các tiêu chí không theo một mẫu nào cả. Loại câu hỏi này khó hơn, mặc dù có thể lượng kiến thức phải sử dụng không nhiều, nhưng lại đòi hỏi trình độ cao về tư duy. Thí dụ như so sánh 2 tháp dân số của nước ta ở hai thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, loại câu hỏi này hầu như rất ít gặp trong các đề thi tuyển sinh. + Loại câu hỏi so sánh bộ phận Loại câu hỏi so sánh bộ phận bao trùm cả phần địa lí tự nhiên và phần địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Vậy bộ phận nào trong chương trình và SGK Địa lí 12 hay được bóc tách ra để thiết kế làm câu hỏi thi? Đối với phần Địa lí tự nhiên Việt Nam, các bộ phận đó thường là: • Thành phần tự nhiên (thí dụ, so sánh về địa hình giữa 2 vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc; so sánh địa hình và đất giữa đồng bằng sông Hồng với đồng bằng sông Cửu Long...). • Đặc điểm tự nhiên (thí dụ, so sánh đặc điểm của 3 miền địa lí tự nhiên ở nước ta...). • Thế mạnh và hạn chế của thiên nhiên giữa các vùng (khu vực, miền) để phát triển kinh tế (thí dụ, so sánh thế mạnh và hạn chế của thiên nhiên đối với việc phát triển kinh tế giữa khu vực đồi núi với khu vực đồng bằng ở nước ta...). Vấn đề còn lại đối với thí sinh là căn cứ vào yêu cầu câu hỏi, trên nền tảng kiến thức đã học phải tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bộ phận nào đó giữa các đối tượng cần so sánh. Đối với phần Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam, các bộ phận có thể gặp là: • Thế mạnh/nguồn lực (rất hay gặp trong các đề thi tuyển sinh). Thí dụ, so sánh thế mạnh để phát triển lương thực - thực phẩm giữa Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long; so sánh nguồn lực để phát triển cây công nghiệp giữa Trung du và miền núi Bắc Bộ với Tây Nguyên Đông, Nam Bộ... • Tình hình phát triển (rất ít gặp). Thí dụ, so sánh tình hình phát triển lương thực giữa Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. • Cơ cấu (rất ít gặp). Thí dụ, so sánh cơ cấu ngành của 2 trung tâm công nghiệp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. • Phân bố (rất ít gặp). Thí dụ, so sánh sự phân bố dân cư giữa Trung du và miền núi Bắc Bộ với Tây Nguyên... Việc xác định các tiêu chí để so sánh trong từng bộ phận rõ ràng là không thể giống nhau. Về nguyên tắc, câu hỏi yêu cầu so sánh bộ phận nào thì phải tìm các tiêu chí so sánh phù hợp với bộ phận đó. Trong số 4 bộ phận nêu trên thì thế mạnh/nguồn lực là bộ phận thường gặp trong các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng. Đối với câu hỏi so sánh thế mạnh/nguồn lực, trước hết phải nắm chắc khái niệm. Thế mạnh/nguồn lực bao gồm thế mạnh/nguồn lực về vị trí địa lí, về tự nhiên và về kinh tế - xã hội. Đây chính là các tiêu chí để so sánh theo yêu cầu của câu hỏi. Loại câu hỏi này tương đối dễ và đã có mẫu nhất định. Tuy nhiên, thí sinh cũng cần lưu ý một số điểm sau đây: Thứ nhất, đối với các câu hỏi yêu cầu so sánh thế mạnh/nguồn lực để phát triển một ngành nào đó giữa hai (hay nhiều) vùng, bên cạnh tiêu chí vị trí địa lí có thể bổ sung thêm tiêu chí quy mô hay vai trò của vùng, tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Xin đưa ra một thí dụ để minh hoạ. Câu hỏi đặt ra là: So sánh thế mạnh để phát triển lương thực - thực phẩm giữa Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Nếu cứ cứng nhắc theo mẫu thì tiêu chí đầu tiên là vị trí địa lí. Ở trường hợp cụ thể này, vị trí địa lí không có ảnh hưởng gì nhiều đến sự phát triển lương thực - thực phẩm, dù rằng đối với một số ngành khác hoặc với nền kinh tế của mỗi vùng thì vị trí có thể có tác động rõ rệt. Vì thế, thay cho tiêu chí vị trí địa lí là tiêu chí quy mô và vai trò của từng vùng. Từ đó, xin nêu một vài gợi ý so sánh theo các tiêu chí đã được lựa chọn (quy mô, vai trò). Giống nhau: • Đều là đồng bằng châu thổ, có diện tích lớn nhất trong số các đồng bằng của nước ta. • Đều là hai vùng lương thực - thực phẩm hàng đầu của cả nước. • Có vai trò quyết định trong việc đảm bảo nhu cầu ăn trong nước và cho xuất khẩu. Khác nhau: • Đồng bằng sông Hồng có một phần nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nên có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế nói chung và lương thực - thực phẩm nói riêng. • Đồng bằng sông Cửu Long có ưu thế hơn hẳn về một số mặt như diện tích tự nhiên, diện tích trồng cây lương thực, sản lượng lương thực và bình quân lương thực theo đầu người (dẫn chứng, so sánh với Đồng bằng sông Hồng và với mức trung bình của cả nước). Thứ hai, cần lưu ý đến yêu cầu câu hỏi (thế mạnh hay nguồn lực) để trả lời cho đúng. Nếu câu hỏi yêu cầu so sánh thế mạnh thì chỉ tập trung phân tích lợi thế mà không cần đề cập tới hạn chế (hay khó khăn). Ngược lại, khi so sánh về nguồn lực thì cần phải nêu cả thế mạnh lẫn hạn chế. Thiếu ý nào, tất nhiên, sẽ bị trừ điểm ý đó. Đối với câu hỏi so sánh các bộ phận khác (tình hình, cơ cấu, phân bố) thì thường chỉ bắt gặp trong các đề thi học sinh giỏi quốc gia, mà hầu như không thấy trong các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng. Trong trường hợp này, việc xác định tiêu chí hoàn toàn phụ thuộc vào câu hỏi cụ thể và sự nhanh nhạy của thí sinh. 2. 3. Dạng chứng minh 2.3.1. Yêu cầu Dạng câu hỏi chứng minh cũng là dạng câu hỏi thường gặp trong các đề thi tuyển sinh. Để đạt được kết quả tốt, cần phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: - Nắm vững kiến thức cơ bản là yêu cầu đầu tiên. Đối với dạng chứng minh, ngoài lượng kiến thức còn phải sử dụng các số liệu chủ yếu liên quan tới yêu cầu câu hỏi. Tất nhiên, mọi dạng câu hỏi ít nhiều đều cần phải có số liệu để minh hoạ, nhưng dạng câu hỏi chứng minh lại đòi hỏi nhiều hơn. Khi cần phải chứng minh một điều gì đó, nhất là về phương diện địa lí kinh tế - xã hội thì số liệu thống kê trở thành một trong những công cụ đắc lực nhất. - Biết cách sàng lọc, lựa chọn kiến thức cũng như số liệu cần thiết để chứng minh. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm tránh sự sa đà, dàn trải và tập trung vào việc tìm ra đủ chứng cứ chứng minh. - Đưa ra các bằng chứng "tâm phục, khẩu phục" dựa trên cơ sở kiến thức cơ bản và số liệu thống kê đã được chọn lọc. Chất lượng của bài thi trong trường hợp này phụ thuộc nhiều vào các bằng chứng có sức thuyết phục. 2.3.2. Phân loại Nội dung chương trình và SGK Địa lí 12 bao gồm hệ thống kiến thức cơ bản về địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Gần như với bất kì kiến thức cơ bản nào cũng đều có thể đặt câu hỏi dưới dạng chứng minh. Chính sự đa dạng đó làm cho việc phân loại các câu hỏi chứng minh trở nên khó khăn hơn. Nhằm giúp thí sinh phân biệt được các loại câu hỏi chứng minh, về đại thể, có thể chia chúng thành 2 loại. Đó là loại câu hỏi chứng minh hiện trạng và loại câu hỏi chứng minh tiềm năng. - Loại câu hỏi chứng minh hiện trạng: Trong trường hợp này, hiện trạng (xin tạm gọi như vậy) nên được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hiện tượng về tự nhiên, kinh tế - xã hội Việt Nam đang tồn tại như chúng ta đang thấy. Yêu cầu của câu hỏi là phải chứng minh thực trạng đó. Dưới đây là một vài thí dụ về loại câu hỏi này: + Chứng minh rằng nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. + Chứng minh rằng thiên nhiên của nước ta có sự phân hoá đa dạng. + Chứng minh rằng tính đa dạng sinh học của nước ta đang bị suy giảm... + Chứng minh rằng dân cư nước ta phân bố không đồng đều và chưa hợp lí. + Chứng minh rằng trong những năm gần đây, ngành thuỷ sản của nước ta đang phát triển mạnh mẽ. + Chứng minh rằng Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước... - Loại câu hỏi chứng minh tiềm năng: Loại câu hỏi chứng minh tiềm năng là loại câu hỏi tương đối dễ và cũng thường gặp trong các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng. Loại câu hỏi này chỉ liên quan đến phần Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam trong chương trình và SGK Địa lí 12. Có thể nêu một vài thí dụ về loại câu hỏi
Tài liệu đính kèm: