Đây là biện pháp rất quan trọng khi dạy về biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3. Nếu như biện pháp 1 ở trên là nền tảng, là cái cơ bản, thì biện pháp này là biện pháp giúp học sinh củng cố vững chắc kiến thức, kĩ năng về biện pháp tu từ so sánh vừa học.
Giáo viên phân biệt cho học sinh thông qua các bài tập thực hành.
Trường hợp 1: Vắng khuyết yếu tố 2 – đặc điểm so sánh
Ví dụ 1: Trẻ em như búp trên cành.
Ví dụ 2: Hai bàn tay em/ Như hoa đầu cành
Trong hai hình ảnh so sánh trên, yếu tố 2 - đặc điểm so sánh không được nêu ra. Kiểu so sánh vắng khuyết yếu tố 2 này tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi hơn. Nó kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để xác định được những nét giống nhau giữa hai đối tượng ở hai vế và từ đó nhận ra đặc điểm của đối tượng miêu tả. Sự suy nghĩ, liên tưởng có thể diễn ra như sau:
- Trẻ em tươi non như búp trên cành./ Trẻ em đầy sức sống như búp trên cành./ Trẻ em chứa chan hi vọng như búp trên cành./
- Hai bàn tay em đẹp như hoa đầu cành./ Hai bàn tay em xinh xắn như hoa đầu cành./ Hai bàn tay em nhỏ xinh như hoa đầu cành./
Trường hợp 2: Vắng khuyết cả yếu tố 2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ so sánh, giữa yếu tố 1 và 4 có dấu gạch hai chấm hoặc dấu gạch ngang.
Ví dụ 1: Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào.
Ví dụ 2: Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.
Trong ví dụ 1 có hai hình ảnh so sánh: So sánh Trường Sơn với chí lớn ông cha và so sánh Cửu Long với lòng mẹ bao la. Trong ví dụ 2 có hai hình ảnh so sánh: so sánh quả dừa với đàn lợn con và so sánh tàu dừa với chiếc lược. Tất cả các hình ảnh so sánh này đều vắng khuyết cả hai yếu tố: yếu tố 2 – đặc điểm so sánh và yếu tố 3 – từ so sánh, giữa yếu tố 1 và 4 có dấu gạch hai chấm hoặc dấu gạch ngang. Khi đọc cần ngắt giọng chỗ có dấu hai chấm hoặc dấu gạch ngang.
thơ hoặc câu văn, gợi mở cho học sinh suy nghĩ tại sao lại đặt hai sự vật, hiện tượng này cạnh nhau mà không có từ ngữ nào ở giữa. Cho học sinh thử thêm vào những từ ngữ thể hiện sự so sánh (thêm yếu tố 3), hoặc thêm cả từ chỉ đặc điểm và từ so sánh (yếu tố 2 + yếu tố 3) mà không làm nội dung câu văn, câu thơ thay đổi. Ví dụ: Tàu dừa như/ tựa như/ như thể/ giống như/ chiếc lược chải vào mây xanh Quả dừa chi chít/ nằm chen chúc/ như đàn lợn con nằm trên cao. Trường hợp 4: Các từ so sánh không phải lúc nào cũng thể hiện sự so sánh. Trong hình ảnh so sánh Trăm cô gái đẹp tựa tiên sa, giáo viên có thể cho học sinh thay thế từ “tựa” bằng các từ ngữ khác cũng thể hiện sự so sánh như: là, giống, hệt, như, như thể, chẳng khác gì, mà ý nghĩa của câu không thay đổi. Nhưng điều quan trọng là giáo viên phải phân biệt cho học sinh không phải lúc nào các từ là, giống, hệt, như, như thể, chẳng khác gì, cũng là các từ dùng để chỉ sự so sánh. Giáo viên giúp học sinh khắc phục điều này bằng cách giúp học sinh hiểu ý nghĩa của các từ ngữ này trong văn cảnh. Nhấn mạnh và nhắc lại cho học sinh là các sự vật, sự việc, hiện tượng, được đem ra so sánh bao giờ cũng phải có một dấu hiệu chung nào đó. Ví dụ 1: Con búp bê của Lan làm bằng vải. Từ “bằng” chỉ mối quan hệ giữa một bên là sự vật, một bên là chất liệu của sự vật đó. Hai sự vật: con búp bê và vải không có dấu hiệu chung. Vậy đây không phải là hình ảnh so sánh. Ví dụ 2: Quả táo này nhỏ bằng ngón tay. Từ “bằng” dùng để chỉ sự so sánh ngang bằng giữa hai sự vật có hình dáng nhỏ bé. Hai sự vật: quả táo này và ngón tay có dấu hiệu chung là nhỏ. Vậy câu trên là hình ảnh so sánh. Đây là trường hợp học sinh khó phát hiện ra hình ảnh so sánh. Giáo viên cần giúp học sinh phân tích theo cấu trúc so sánh và tìm ra dấu hiệu chung của các yếu tố so sánh. Tóm lại, khi dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3, cần giúp học sinh nắm được cấu trúc hoàn chỉnh thường gặp của so sánh tu từ. Trong đó yếu tố 1 và yếu tố 4 là quan trọng nhất, không thể vắng khuyết. Học sinh dần được làm quen với các dạng khuyết thiếu 1 trong các yếu tố như trên. Khi gặp dạng nào giáo viên cũng nên đưa vào mô hình cấu tạo để học sinh nhận biết. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh làm dạng bài tập sáng tạo Dạng bài tập sáng tạo giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn. Tuy nhiên, dạng bài tập này trong SGK rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì I gồm 2 bài tập. Để làm được dạng bài tập này bắt buộc giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh nắm được một cách chắc chắn về so sánh tu từ như hai biện pháp trên. Bài tập 1: Nhìn tranh đặt câu Tương tự Bài tập 3/SGK trang126: Ta có thể đưa ra bài tập sau : Ví dụ: Quan sát từng cặp tranh ở hình 1 rồi viết các câu có hình ảnh so sánh Hình 1 Bài tập 2: Dạng bài tập điền khuyết Ví dụ: Bài tập 4/trang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống: Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như... Trời mưa, đường đất sét trơn như... Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như.... Khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập dạng này, giáo viên cần thao tác theo các bước sau: Bước 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu đề bài. Bước 2: Phân tích các yếu tố của bài cho và đưa vào mô hình cấu trúc so sánh xem còn thiếu yếu tố nào để hoàn chỉnh hình ảnh so sánh. Bước 3: Suy nghĩ dựa trên các dấu hiệu chung để tìm các từ ngữ thích hợp. Bước 4: Thử các từ ngữ khác, đọc và lựa chọn từ ngữ em cho là hay nhất. Ta phân tích bài tập 1: Ở tranh 1: Có 2 sự vật là xe ô tô và cung tên/ tên bắn Ta đưa vào mô hình cấu trúc so sánh : Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Xe ô tô tên bắn Như vậy đã có yếu tố 1 và yếu tố 4, còn thiếu yếu tố 2 và yếu tố 3: Yếu tố 2 (phương diện so sánh): dựa vào đặc điểm của hai sự vật này, học sinh dễ dàng nhận thấy hai sự vật này có dấu hiệu chung về hoạt động: lao, đi, chạy, phi, các hoạt động này có đặc điểm chung là nhanh. Yếu tố 3 : Nếu học sinh so sánh ngang bằng thì có thể sử dụng: như, như thể, Nếu học sinh so sánh hơn kém thì có thể sử dụng: hơn, hơn cả, Vậy tổng hợp lại ta được câu hoàn chỉnh: Xe ô tô lao nhanh như tên bắn./ Xe ô tô chạy nhanh hơn tên bắn/ Nếu không sử dụng yếu tố 2 thì ý nghĩa của câu thông báo sẽ không rõ ràng: Xe ô tô như tên bắn. Khi nhắc đến ô tô ta thường nghĩ đến hình dáng, màu sắc của nó. Vậy xe ô tô và tên bắn có gì giống nhau về hình dáng và màu sắc? Rõ ràng là không. Vậy ta phải nói rõ ta đang so sánh ô tô và tên bắn về đặc điểm gì, cho nên phải có yếu tố 2 ở đây. Các trường hợp còn lại tương tự, giáo viên sử dụng phương pháp phân tích - rèn luyện theo mẫu như trong các nghiên cứu về phương pháp dạy học biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 đã đưa ra. Ví dụ các trường hợp còn lại : - Bóng đèn điện toả sáng như mặt trăng. - Cây thông cao như ngọn tháp. - Nụ cười của cô ấy xinh như hoa hồng. - Thỏ thì hiền hơn hùm. Ta phân tích bài tập 2: Ta cũng cho học sinh đưa các yếu tố đã có vào mô hình cấu trúc so sánh Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Công cha như Nghĩa mẹ như Như vậy đã có yếu tố 1 và yếu tố 3, còn thiếu yếu tố 2 và yếu tố 4: Ở đây yếu tố 4 là quan trọng, không thể thiếu. Để tìm yếu tố 4 ta cho học sinh suy nghĩ xem công cha giống với gì? (núi Thái Sơn/ núi cao/ trời/), nghĩa mẹ giống với gì? (nước biển Đông/ nước trong nguồn/ biển/ ) Còn yếu tố 3, học sinh có thể tìm là to lớn, bao la, ngời ngời, Vậy sắp xếp lại ta được các câu hoàn chỉnh : Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước biển Đông. (không có yếu tố 3) Nếu tách rời, ta được hai câu: Công cha to lớn như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ bao la như nước biển Đông. (Có đầy đủ 4 yếu tố) Ở đây, ta lưu ý cho học sinh yếu tố 3 có thể không có. Trong những câu mà sắc thái tình cảm thể hiện rất rõ như thế này thì người ta thường che lấp đi phương diện so sánh để người đọc, người nghe có những suy nghĩ, liên tưởng của riêng mình. Các đáp án có thể là: a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy ra, như sông như biển, b) như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu... c) núi, những ngọn tháp... Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, nhất là các tiết Tiếng Việt luyện tập, giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức. Trong khi học về biện pháp so sánh, học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh ngang bằng thường gặp các từ so sánh như: tựa, giống, giống như, không thua, không khác Kiểu so sánh hơn kém thường gặp các từ so sánh như: hơn, kém, thua, chẳng bằng, Biện pháp 4: Kết hợp sử dụng trò chơi học tập : Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện, học là mục đích. Thông qua hình thức chơi mà học, học sinh sẽ được hoạt động, tự củng cố kiến thức và rèn luyện phản xạ. Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả, cần xác định mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi cần phải đơn giản, dễ hiểu. Ví dụ: Trò chơi “Thử tài so sánh” Mục đích: - Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có hình ảnh so sánh đúng. - Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng, liên tưởng về hoạt động hay đặc điểm, tính chất ... của sự vật. Chuẩn bị : - Làm các bộ phiếu bằng giấy (Kích thước: 3 x 4 cm) - Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm, màu sắc... của sự vật (Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học). Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất. Ví dụ : + Bộ phiếu A (5 từ chỉ hoạt động, trạng thái): Đọc, viết, cười, nói, khóc (Dành cho Tiết 7: Ôn tập từ chỉ trạng thái, tính chất) + Bộ phiếu B (5 từ chỉ màu sắc) Trắng, xanh, đỏ, vàng, đen (Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh) + Bộ phiếu C (5 từ chỉ đặc điểm, tính chất): đẹp, cao, khoẻ, nhanh, chậm (Dành cho tiết 14, 17: Ôn tập từ chỉ đặc điểm) - Phiếu được gấp tư để “bốc thăm” - Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi. Tiến hành : - Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xung phong lên thử tài so sánh (1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”). - Học sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe rồi nêu thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó. - Ví dụ: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cụm từ so sánh: trắng như tuyết, trắng như vôi, (hoặc: trắng như trứng gà bóc). - Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng- Sai + Đúng được bao nhiêu kết quả được bấy nhiêu điểm. + Trọng tài đếm từ 1-5 vẫn không nêu được kết quả thì không có điểm. - Lần lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài. Hết 5 phiếu thì về chỗ, thư kí công bố kết quả. - Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có tài so sánh cao nhất là người thắng cuộc. Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh động của giáo viên. Cũng có thể mỗi học sinh lần lược bốc cả 5 phiếu. Mỗi phiếu chỉ cần nêu 1 cụm từ. Người thứ không được nêu lặp cụm từ của người trước. Hoặc cũng có thể bốc cả 5 phiếu và tiến hành theo nhóm. Nhóm nào tìm được nhiều cụm từ nhất thì nhóm đó thắng. Tham khảo: 1/ Gợi ý các cụm từ có hình ảnh so sánh nêu ở mục chuẩn bị Bộ phiếu A: (5 từ chỉ hoạt động, trạng thái) - Đọc: Đọc như đọc kinh, đọc như rên rỉ, đọc như cuốc kêu, đọc như nói thầm, đọc như vẹt, - Viết: viết như gà bới, viết như giun bò, viết như rồng bay phượng múa, viết như in,... - Cười: cười như nắc nẻ, cười như pháo nổ, cười như mếu,... - Nói: nói như khướu, nói như vẹt, nói như Trạng Quỳnh, nói như thánh tướng,... - Khóc: khóc như mưa, khóc như ri, khóc như cha chết,... Bộ phiếu B (5 phiếu từ chỉ màu sắc): - Trắng: trắng như trứng gà bóc, trắng như tuyết, trắng như vôi, trắng như bột lọc, trắng như ngà voi,... - Xanh: xanh như tàu lá, xanh như pha mực, xanh như nước biển... - Đỏ: Đỏ như máu, đỏ như son, đỏ như gấc, đỏ như mận chín, đỏ như ớt, đỏ như quả cà chua,... - Đen: đen như than, đen như gỗ mun, đèn như cột nhà cháy, đen như bồ hóng, đen như quạ, đen như cuốc,... - Vàng: vàng như nghệ, vàng như mật ong, vàng như tơ, vàng như nắng, vàng như l
Tài liệu đính kèm: