SKKN Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS

SKKN Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS

Trong giảng dạy bộ môn lịch sử người giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc làm sống lại các sự kiện lịch sử, tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức trong sách giáo khoa để truyền thụ cho học sinh thì khó có thể tạo dựng lại quá khứ của dân tộc. Vì vậy để thu hút các em đi sâu vào tìm hiểu khám phá và có cảm xúc thực sự đối với các sự kiện lịch sử thì việc vận dụng kiến thức các bộ môn khác là vô cùng cần thiết bởi nó sẽ giúp cho bài giảng trở nên sinh động, hấp dẫn và nâng cao hứng thú học tập của các em.

Như vậy việc tạo hứng thú học tập là điều kiện cần thiết để tiến hành giáo dục và giáo dưỡng có kết quả, hình thành thế giới quan khoa học với học sinh, điều này cần được tiến hành trên tất cả các mặt nội dung, phương pháp, điều kiện học tập bản thân tôi nhận thấy rằng ngoài việc sử dụng các phương tiện trực quan khi lồng ghép các kiến thức địa lí, văn học trong bài dạy có tác động rất tốt đến sự chú ý của các em. Trước hết việc sử dụng ngôn ngữ mượt mà giàu sức biểu cảm , những hình tượng nghệ thuật gắn liền với nội dung lịch sử không những làm giảm đi tính khô khan của các sự kiện lịch sử mà còn giúp không khí giờ học trở nên nhẹ nhàng thoải mái hơn, học sinh sẽ dễ nhớ và nhớ lâu hơn những kiến thức mà mình thu nhận được.

 

doc 21 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 3036Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử cấp THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứu khóa trình lịch sử Việt Nam - lớp 7, 8, 9 THCS phần lịch sử Việt Nam.
 Những vấn đề đưa ra đều mang tính khái quát tổng hợp theo từng nội dung đơn vị kiến thức.
 I. 5. Phương pháp nghiên cứu
 - Phương pháp quan sát thực tế
 - Phương pháp điều tra khảo sát
 - Phương pháp trao đổi với các đồng nghiệp rút kinh nghiệm và ứng dụng vào quá trình giảng dạy.
II. PHẦN NỘI DUNG.
 II.1. Cơ sở lý luận.
 Định hướng chung về đổi mới phương pháp dạy học đã được quy định trong Luật giáo dục và được cụ thể hóa trong quá trình xây dựng chương trình và biên 
soạn sách giáo khoa Trung học cơ sở. Đó là: “Dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác trong học tập và thực tiễn”.
 Là giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường Trung học cơ sở, tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn, nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn, bởi vì đối tượng là học sinh cấp Trung học cơ sở thì nhận thức, khả năng tư duy tuy có hơn so với các em ở bậc Tiểu học song vẫn còn nhiều hạn chế. Vì thế, để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động mà phải luôn khẳng định: “Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin” (W. B. Yeats).
 Đairi, nhà nghiên cứu sư phạm học của Liên Xô trước đây từng cho rằng: “Dạy lịch sử cũng như bất cứ dạy cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lại”.
 Dạy học có hiệu quả, phù hợp với lứa tuổi học sinh là một trong những nội dung quan trọng của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi các nhà trường phải đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học, nâng cao khả năng tư duy, giải quyết tình huống. 
 II. 2. Thực trạng
a. Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi
 * Về phía giáo viên: Trường Trung học cơ sở Lê Văn Tám có đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy. Nhiều giáo viên có thâm niên cao, nhiều kinh nghiệm trong công tác giáo dục học sinh.
 * Về phía học sinh: Phần lớn học sinh chăm ngoan, chất lượng học tập của học sinh khá đồng đều ở bộ môn và có sự nâng lên qua các năm.
* Khó khăn
 Kiến thức lịch sử bao giờ cũng ở mức độ trừu tượng khá cao, vì nó không chỉ phản ánh một sự kiện đa dạng riêng rẽ hay một nhóm sự kiện mà còn phản ánh những hiện tượng phức tạp đa dạng về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, những quan hệ của con người với thiên nhiên, của con người với nhau trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp.
 Chương trình Lịch sử lớp 7,8,9 còn nặng nề quá sức với học sinh. Phần lớn học sinh học xong bài này thì quên bài trước. Học xong từng bài thì hiểu và nắm được nội dung của bài đó. Nhưng đến khi tổng hợp kiến thức từng chủ đề, từng chương, từng phần thì không làm được.
 Bên cạnh nguyên nhân khách quan, chất lượng dạy và học môn lịch sử yếu kém vẫn thuộc về trách nhiệm của những giáo viên dạy lịch sử. Không có học trò dốt sử, mà chỉ có những người thầy chưa giỏi về dạy sử. Rõ ràng ở đây, phương pháp và cách dạy lịch sử của đội ngũ thầy cô dù có sự đổi mới song cũng chưa thực sự khơi dậy hứng thú tìm tòi kiến thức trong học sinh 
 Hầu hết học sinh khi học môn lịch sử đều học thuộc lòng, đọc từ đầu đến cuối bài mà không có sự ghi nhớ theo từng mục từng nội dung và nhớ từng sự kiện mà không có khả năng phân tích, khái quát, nhìn nhận sự kiện lịch sử trong  bối cảnh thời đại. Phần lớn tâm lí các em đều thấy bộ môn lịch sử nhiều sự kiện , kiến thức dài khó nhớ nên dễ có tâm lí học đối phó buông xuôi.
Từ đó thấy rõ bản chất, nguyên nhân và mối liên hệ của các sự kiện để hệ thống hóa vấn đề cho dễ nhớ những sự kiện điển hình, tiêu biểu của mỗi giai đoạn lịch sử và không sa đà vào những chi tiết vụn vặt. Cách giảng dạy môn lịch sử của đa phần thầy cô vẫn là “Thầy đọc – Trò chép”. Các bài kiểm tra đưa ra tập trung quá nhiều vào việc liệt kê, điểm lại các sự kiện mà chưa coi trọng việc phân tích, tìm ra mối liên hệ giữa các sự kiện, phát huy khả năng khái quát, sáng tạo và biết cách hệ thống hóa vấn đề của học sinh.
 Môn lịch sử là môn học dựng lại quá khứ thông qua các sự kiện, con số để phân tích và rút ra bài học sinh động cho thực tiễn ngày nay. Để giúp học sinh dựng lại quá khứ, nếu chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh qua các sự kiện  khô khan thì không hiệu quả.
b. Thành công và hạn chế
Qua thời gian áp dụng đề tài này trong giảng dạy tôi nhận thấy học sinh có hứng thú đối với môn học hơn trước, tạo được không khí học tập tích cực, đa phần các em đã có ý thức tự giác hơn trong học tập đặc biệt là việc chuẩn bị các tài liệu liên quan đến bài học. Đối với những học sinh khá, giỏi đã phát triển được khả năng tìm tòi ham học hỏi của các em.
Tuy nhiên một số học sinh kĩ năng liên hệ vận dụng kiến thức liên môn còn hạn chế, các em chưa biết cách khai thác các đơn vị kiến thức bổ trợ của các môn học khác để vận dụng vào môn lịch sử, chưa thực sự chú trọng đến việc chuẩn bị các tư liệu liên quan đến bài học.
c. Mặt mạnh và mặt yếu
 	Giúp giáo viên khắc phục được tình trạng khô cứng trong dạy học tạo động lực cho học sinh học tập tốt hơn môn học của mình đồng thời thúc đẩy khả năng sáng tạo tư duy độc lập của các em 
Để chuẩn bị cho việc dạy học vận dụng kiến thức liên môn đòi hỏi giáo viên phải có vốn kiến thức rộng, phải đầu tư tìm tòi nghiên cứu tài liệu minh họa cho bài dạy mất nhiều thời gian và phải có sự chuẩn bị chu đáo cho mọi khâu của tiết học, việc vận dụng phải khéo léo, linh hoạt nếu không sẽ không mang lại tác dụng giáo dục như mong muốn.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
 Từ thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng đa số học sinh vẫn còn thói quen học thuộc lòng, học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì thế sẽ mau quên kiến thức cũ.
 Mặc dầu đã giảm tải chương trình Sách giáo khoa nhưng một số bài vẫn còn dài, kiến thức dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả giáo viên lẫn học sinh.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập môn lịch sử của học sinh yếu kém có rất nhiều song cơ bản có thể thấy rõ qua các mặt sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nhận thức của học sinh, phụ huynh và của mọi cá nhân trong xã hội cần phải có sự thay đổi trong cách nhìn nhận đối với vai trò của bộ môn lịch sử trong việc giáo dục thế hệ trẻ và nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp trong tâm hồn các em về cội nguồn lịch sử dân tộc, về những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được lưu giữ qua hàng ngàn năm nay. Một thực tế không thể phủ nhận là nhiều phụ huynh chỉ mong muốn và đầu tư cho con em mình học tốt các môn tự nhiên còn các môn như sử, địa thì có tâm lí coi thường “học để làm gì khi đầu ra sau này khó tìm kiếm cơ hội công tác..” đây cũng là yếu tố tác động không nhỏ trong cách suy nghĩ và đánh giá của mọi người.
Thứ hai, chương trình sách giáo khoa còn quá nặng nề về kiến thức, sự kiện, cách thể hiện kiến thức hình ảnh chưa thực sự sinh động nên không thu hút 
được sự quan tâm của các em, hơn thế nữa thời lượng số tiết dành cho bộ môn chưa tương xứng với khối lượng kiến thức trong chương trình nên thường thì cả giáo viên và học sinh trong giờ học phải tăng tốc mới có thể đi hết kiến thức theo yêu cầu chứ chưa nói đến việc mở rộng và nâng cao kiến thức cho các em. Trong khi đó các em học sinh còn phải gồng mình lên để chiến đấu với kiến thức các bộ môn khác nên tâm lí thờ ơ chán nản đối với bộ môn lịch sử cũng là điều dễ hiểu.
Thứ ba, phương pháp giảng dạy của một số giáo viên lịch sử vẫn còn thiếu chiều sâu, chưa hấp dẫn đối với học sinh trong cách truyền tải kiến thức, vẫn còn mang tính nhồi nhét, và người thầy cũng chưa đủ sức vượt qua rào cản “ môn phụ” nên tâm lí chán nản không muốn đầu tư nhiều cho tiết dạy nên cũng dễ làm cho học sinh có tâm lí coi thường môn học này.
Thứ tư, kiến thức lịch sử địa phương chưa được đưa vào sách giáo khoa mà tài liệu biên soạn thì viết rất khó dạy điều này cũng khiến cho giáo viên và học sinh ít có sự hiểu biết về địa phương nơi mình sinh sống.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
 Lịch sử là những gì trải qua trong quá khứ. Do vậy, bộ môn cung cấp một lượng kiến thức rất lớn trong khoảng một thời gian hạn hẹp. Trong thực tế giảng dạy lịch sử là môn học có kiến thức liên môn song có lẽ có mối quan hệ tác động qua lại mật thiết nhất và bổ sung cho nhau nhiều đó là văn học và địa lí. Trước hết là bởi vì đây đều là những bộ môn về khoa học xã hội, thứ hai do kiến thức lịch sử đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống cho nên việc lồng ghép kiến thức văn học, địa lí vào trong giờ dạy lịch sử là điều không thể thiếu được nhất là các dạng bài học về Văn học, nghệ thuật, hoặc các bài về diễn biến các chiến dịch 
Nếu như lịch sử tái tạo lại quá khứ bằng những con số, những sự kiện cụ thể, môn địa lí cung cấp những địa danh, địa điểm cụ thể thì văn học thường mô tả các sự kiện đó bằng hình tượng điều đó có tác động rất lớn đến nhận thức của học sinh. Đã có không ít tác phẩm văn học tự bản thân nó là một tư liệu lịch sử như “ Hịch tướng sĩ”, “ Cáo Bình Ngô”, “Hoàng lê nhất thống chí” là những minh chứng hùng hồn cho mối quan hệ giữa các môn học trên.
b. Nội dung và cách thực hiện các giải pháp, biện pháp
Trong giảng dạy bộ môn lịch sử người giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc làm sống lại các sự kiện lịch sử, tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức trong sách giáo khoa để truyền thụ cho học sinh thì khó có thể tạo dựng lại quá khứ của dân tộc. Vì vậy để thu hút các em đi sâu vào tìm hiểu khám phá và có cảm xúc thực sự đối với các sự kiện lịch sử thì việc vận dụng kiến thức các bộ môn khác là vô cùng cần thiết bởi nó sẽ giúp cho bài giảng trở nên sinh động, hấp dẫn và nâng cao hứng thú học tập của các em.
Như vậy việc tạo hứng thú học tập là điều kiện cần thiết để tiến hành giáo dục và giáo dưỡng có kết quả, hình thành thế giới quan khoa học với học sinh, điều này cần được tiến hành trên tất cả các mặt nội dung, phương pháp, điều kiện học tập bản thân tôi nhận thấy rằng ngoài việc sử dụng các phương tiện trực quan khi lồng ghép các kiến thức địa lí, văn học trong bài dạy có tác động rất tốt đến sự chú ý của các em. Trước hết việc sử dụng ngôn ngữ mượt mà giàu sức biểu cảm , những hình tượng nghệ thuật gắn liền với nội dung lịch sử không những làm giảm đi tính khô khan của các sự kiện lịch sử mà còn giúp không khí giờ học trở nên nhẹ nhàng thoải mái hơn, học sinh sẽ dễ nhớ và nhớ lâu hơn những kiến thức mà mình thu nhận được.
Có thể thấy lịch sử cũng phân tích các yếu tố của điều kiện tự nhiên đối với sự phát triển của xã hội loài người trong từng giai đoạn. Một công cụ trực quan mà cả hai bộ môn này đều sử dụng đó là bản đồ, đặc biệt là trong các tiết 
học về các diễn biến chiến dịch lịch sử hoặc một phong trào cách mạng thì bản đồ chính là công cụ thể hiện không gian diễn biến các sự kiện lịch sử. Như vậy thông qua học bản đồ lịch sử học sinh có dịp củng cố lại kiến thức địa lí qua các địa điểm, địa danh nơi diễn ra các sự kiện, điều này sẽ góp phần hạn chế tình trạng học sinh không phân biệt được vị trí hoặc phương hướng địa điểm, địa danh đó thuộc khu vực nào trên đất nước ta.
VD: Chẳng hạn khi dạy bài 29 Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những biến chuyển về kinh tế xã hội ở Việt Nam ( Lịch sử lớp 8) ở mục 1. Tổ chức bộ máy nhà nước tôi sử dụng lược đồ hành chính Việt Nam và đặt câu hỏi:
 Bằng kiến thức địa lí hãy cho biết thực dân Pháp phân chia các đơn vị hành chính nước ta thời bấy giờ như thế nào? Mục đích ?
 để cho học sinh xác định sự phân chia đơn vị hành chính nước ta thời thuộc Pháp ở ba kì với các chế độ cai trị khác nhau và mục đích cai trị của chúng. 
Ở Mục II. 2 Đô thị phát triển, sự xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới tôi đặt câu hỏi: Hãy cho biết sự xuất hiện các đô thị ở Việt Nam qua lược đồ? 
học sinh sẽ xác định trên lược đồ và từ đó sẽ rút ra được nhận xét hàng loạt các đô thị được hình thành trong giai đoạn này.
 Như vậy việc vận dụng kiến thức địa lí thông qua lược đồ trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh củng cố được kiến thức địa lí vừa giúp nắm vững kiến thức lịch sử.
Hoặc khi dạy bài 30 Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918 mục II. 3 Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi dùng bản đồ hành trình cứu nước để học sinh nắm được những chặng đường mà Nguyễn Tất Thành đã đi qua, để nhấn mạnh những gian lao vất vả của Người khi bôn ba ở nước ngoài tôi đã trích dẫn đoạn thơ sau:
“Có nhớ chăng gió rét thành Ba lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya
Đời bồi tàu lênh đênh theo song bể
Người đi hỏi khắp bóngcờ Châu Mĩ, Châu Phi
Những đất tự do những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi”
( trích Bài Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
VD: Khi dạy bài Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc ( 1953 – 1954) mục II. Cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953 -1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954
Tôi đặt câu hỏi: Mục tiêu và phương hướng chiến lược của ta là gì? 
Qua nghiên cứu bài hãy xác định những hướng tấn công chính của ta trên lược đồ? 
Như vậy thông qua việc học sinh xác định vị trí các hướng tấn công của ta trong chiến cuộc đông xuân 1953 – 1954 trên lược đồ cũng là dịp để các em củng cố lại kiến thức địa lí của mình.
Khi dạy mục 2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954 tôi yêu cầu học sinh nghiên cứu lược đồ xác định vị trí của cứ điểm Điện Biên Phủ và đặt câu hỏi:
Phân tích vị trí chiến lược của cứ điểm Điện Biên Phủ? Dựa vào đâu mà Pháp & Mĩ cho rằng Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm?
Để trả lời được câu hỏi này buộc học sinh phải vận dụng những hiểu biết của mình về kiến thức địa lí để phân tích được vị trí chiến lược trọng yếu của Điện Biên Phủ và thấy được lí do vì sao mà Pháp phải hai lần đổ quân xuống để giữ cứ điểm này.
Cũng trong bài này sau khi khái quát về kết quả của chiến dịch tôi đã trích dẫn thơ của Tố Hữu:
“ 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm,mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
.Nghe trưa nay tháng 5 mùng 7
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực đỏ trời đất Điện Biên toàn thắng.
 ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Không những chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng chiến hào hung của dân tộc.Tôi nhận thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được, điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần yêu nước, sự cảm phục đối với sự cống hiến hy sinh của các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức của các em.
Cũng bằng phương pháp trên tôi áp dụng trong bài 19 Khởi nghĩa Lam Sơn mục III.2 Trận Chi Lăng – Xương Giang ( Lịch sử lớp 7) khi giảng diễn biến trận Chi Lăng - Xương Giang thông qua lược đồ tôi trích dẫn đoạn thơ mô tả khí thế tiến công của quân ta và sự đại bại của quân địch:
“ Ngày 18 trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
..... Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước
Bị ta chặn đánh ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ
khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
 chạy để thoát thân”
( Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi)
Sau đó khi kiểm tra lại tôi thấy không những các em có thể ghi nhớ chính xác các sự kiện trong bài đã học mà còn biết kết hượp mô tả và tường thuật lại diễn biến của trận chiến, giờ học trôi đi trong không khí rất sôi nổi thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú với các sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên những dẫn chứng tiêu biểu. Qua đó tôi thấy rằng sử dụng lồng ghép kiến thức địa lí, văn học trong giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm được nội dung bài mau chóng, nhớ lâu hơn mà còn góp phần củng cố thêm vốn kiến thức văn học, địa lí tạo điều kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ kiến thức trong quá trình học tập của mình.
Không những chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức giữa lịch sử và văn học còn có nhiều điểm tương đồng về phương pháp như so sánh, miêu tả, liên tưởng.nhất là trong các dạng bài những thành tựu về Văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên đối với dạng bài này thì có khó khăn là học sinh thường nắm được vấn đề qua văn học nên tỏ ra thờ ơ. Làm sao kéo học sinh vào không khí lịch sử và chỉ cho các em thấy được sự khác biệt giữa kiến thức văn học và kiến thức lịch sử? Bằng cách sử dụng câu hỏi liên hệ phần nào đã khắc phục được tình trạng trên
VD: Khi dạy phần Văn học, khoa học, nghệ thuật ( Bài 20 Nước Đại Việt thời Lê sơ 1428 – 1527) ta có thể đặt câu hỏi vận dụng như sau: 
Bằng kiến thức văn học hãy kể tên những tác phẩm văn học, tác giả nổi tiếng thời Lê sơ mà em biết? Nội dung tư tưởng chủ yếu trong văn học thời kì này là gì?
Học sinh dựa vào kiến thức môn văn để trả lời sau đó giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi để học sinh thấy được có những lĩnh vực không được đề cập đến trong văn học như kinh tế, tư tưởng, tôn giáo từ đó nhận ra sự đa dạng và phong phú trong kiến thức lịch sử.
 Hoặc liên hệ về kiến thức địa lí ta có thể đặt câu hỏi: 
Kể tên những thành tựu tiêu biểu về địa lí học thời Lê sơ?
Về nghệ thuật ta có thể sử dụng một số tranh ảnh của bộ môn mĩ thuật về những thành tựu nghệ thuật thời Lê sơ để minh họa cho học sinh thấy được sự phát triển rực rõ của nghệ thuật kiến trức và điêu khắc giai đoạn này.
Dạy bài Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919 -1925 ( Lịch sử lớp 9) vận dụng phương pháp mô tả, liên tưởng tôi trích dẫn đoạn thơ sau:
“ Luận cương đến Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ LêNin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi
Hình của Đảng lồng trong hình của nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”
( trích Bài Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
 nhằm nhấn mạnh sự xúc động và sự thay đổi trong tư tưởng hành động của Nguyễn Ái Quốc khi tiếp xúc với Bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của LêNin để từ đó Bác đã lựa chọn cho mình một con đường đi đúng cho dân tộc Việt Nam con đường “ Cách mạng vô sản”.
Hay khi dạy bài Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất (Lịch sử lớp 9) khi phân tích đặc điểm, thái độ chính trị của giai cấp nông dân Việt Nam bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn ta có thể đặt câu hỏi liên hệ: 
Người con trai của Lão Hạc đi đâu? (Tác phẩm Lão Hạc ngữ văn 9) học sinh sẽ liên hệ ngay người con trai của Lão Hạc đi làm phu đồn điền, từ đó giáo viên dẫn dắt cho học sinh thấy được nguồn gốc của giai cấp công nhân chính là xuất phát từ những người nông dân bị bần cùng hóa phải bán sức lao động trong các nhà máy, xí nghiệp trở thành một giai cấp mới ra đời ngay trước chiến tranh qua đó phản ánh rõ bộ mặt tàn bạo của thực dân, phong kiến với chính sách bóc lột sưu thuế đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng.
Vận dụng phương pháp so sánh miêu tả trong bài Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 mục II.2 Tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ( Lịch sử lớp 9) tôi nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN - LICH SU - HAI YEN - LVTAM.doc