SKKN Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 - 6 tuổi

SKKN Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 - 6 tuổi

Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen văn học:

- Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong mọi hoạt động ở trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày và qua môn làm quen văn học tôi đã tích cực đưa ngôn ngữ tiếng Việt vào cung cấp cho các cháu.

- Thông qua tổ khối, chuyên môn chúng tôi đã thống nhất lựa chọn bài thơ, câu chuyện phù hợp với từng độ tuổi của trẻ, có nội dung dể hiểu và hấp dẫn đối với trẻ. Vì sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, chưa có ý thức trong hoạt động học tập. Nắm được nhược điểm này tôi đã luôn tìm tòi và sưu tầm những “nghệ thuật lên lớp” tạo ra mọi tình huống bất ngờ, hồi hộp, hay vui nhộn để lôi cuốn sự tập trung chú ý của trẻ vào tiết học, khơi gợi tính tò mò, thích tìm hiểu và khám phá ở trẻ.

Ví dụ: Cốc ! cốc! cốc ! Dê con ngoan ngoãn mau mở cửa ra mẹ đã về rồi

cho các con bú (cô giả giọng chó sói hung ác ) và muốn biết đó có phải là Dê mẹ không thì chúng mình hãy thật im lặng và lắng nghe xem Dê con có mở cửa không qua câu chuyện “Dê con nhanh trí” nhé.

- Với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, lúc hồi hộp, lúc gây cấn của cô đã lôi cuốn được trẻ vào giờ học và từ đó trẻ chăm chú lắng nghe cô kể và tiếp thu được lời kể của cô giáo. Cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện.

 

doc 19 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1009Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 - 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các cháu 100% là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, các cháu ít có cơ hội giao tiếp tiếng việt vì ở Thôn buôn các cháu ít có người kinh sinh sống chính vì vậy mà việc các cháu tiếp thu tiếng việt còn gặp rất nhiều hạn chế.
Cảnh quan nhà trường còn hạn hẹp, chưa được thoáng mát, ít cây xanh, gây trở ngại khi cho trẻ hoạt động tích hợp vào các môn khác.
Điều kiện sử dụng, cập nhật công nghệ thông tin của giáo viên còn hạn chế, nên sự cuốn hút sáng tạo của trẻ khi hoạt động còn hạn chế.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Với thực trạng địa bàn còn nhiều khó khăn và bất cập, trẻ đến trường không biết nói tiếng phổ thông, e ngại, nhút nhát, sợ hãi trong giao tiếp với bạn bè cùng trang lứa. Nhân dân trên địa bàn còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí thấp, đa số họ chưa quan tâm đến việc học tập của con em.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp và biện pháp
Trước tình hình thực tế ở lớp tôi, tôi nghĩ việc cung cấp cho trẻ dân tộc thiểu số vốn tiếng Việt là một việc hết sức quan trọng cần thiết và cấp bách. Khi mới nghĩ đến điều này thì tưởng chừng như đơn giản nhưng trên thực tế lại không đơn giản tí nào, tôi đã tự hỏi phải làm thế nào để cho trẻ tiếp thu tiếng việt một cách hiệu quả và với 1 số kinh nghiệm nhỏ tôi đã mạnh dạn áp dụng cho trẻ ở lớp tôi với muc đích giúp cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số.
3.2.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Để góp phần đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non. Tôi đã tuyên truyền phụ huynh tích cực hợp tác với nhà trường, cùng thống nhất dạy tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Đặc biệt khi trẻ ở nhà các thành viên trong gia đình cần dùng tiếng Việt giao lưu với trẻ thường xuyên. Mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ, hành động để trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên không gò bó. Ví dụ: Thông qua biện pháp trực quan hành động giúp cho người học tiếp thu có hiệu quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên hứng thú. Mục đích của phương pháp này nhằm giúp cho người học đạt được các mục đích như: Hiểu và sử dụng ngôn ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói một ngôn ngữ mới. Không cho trẻ nói khi chưa thực hiện thành thạo được các hành động, để có thể tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự tin làm đúng, trẻ sẽ tự muốn nói và có thể tự thực hành với bạn của mình, giáo viên cần cho trẻ đều được thực hành ở mỗi lần học. Chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn giản, ngắn gon, không dẫn dắt, giảng giải nhiều vì trẻ chưa hiểu tiếng Việt.
Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ sử dụng khi hướng dẫn trẻ. Nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ để ra hiệu cho trẻ hiểu ý đồ của mình, thay cho việc nói nhiều của người dạy. Lúc đầu dạy từ 1-2 từ dễ hiểu kết hợp với hành động như: Đứng lên, ngồi xuống... đến ngày hôm sau cô giáo cần cho trẻ ôn lại những gì được học ngày hôm trước, để khắc sâu sự ghi nhớ bằng hình thức chơi mà  không cần phải giữ nguyên thứ tự từ các bước ngày hôm trước dạy nữa ví dụ: Đứng lên - ngồi xuống, ngồi xuống - đứng lên, rửa tay - rửa chân Dạy tiếng Việt với biện pháp trực quan hành động với đồ vật, biện pháp này dạy trẻ các từ mới như: Cái bàn, cái ghế, quyển vở
Ngoài ra còn sử dụng các biện pháp dạy trẻ học tiếng Việt qua kể chuyện, đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các đồ chơi minh hoạ, đơn giản tượng trương cho các nhân vật chính, sử dụng các nhân vật có sẵn để làm đồ dùng minh hoạ. Hoặc trẻ học tiếng Việt thông qua việc dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng Việt.
Biện pháp 1. Tuyên truyền huy động trẻ đi học chuyên cần, cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi
* Tuyên truyền huy động trẻ đi học chuyên cần
- Tuyên truyền với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của tiếng Việt đối với trẻ và nhờ họ khuyến khích con cháu mình giao tiếp bằng tiếng phổ thông
- Khi đến lớp tôi luôn tạo sự gần gũi với trẻ, tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình của từng trẻ, thường xuyên gặp gỡ nói chuyện và trao đổi với phụ huynh của trẻ, cho họ biết việc đưa con mình đến lớp mẫu giáo là một vấn đề quan trọng, nó giúp ích cho trẻ rất nhiều, cháu đến trường sẽ được học chương trình mầm non, cháu được học múa, học hát, được làm quen với các bài thơ, được nghe kể chuyện, học vẽ, tập tô giúp hình thành ở các cháu các kỹ năng cần thiết, đồng thời qua đó sẽ giúp cho các cháu mạnh dạn hơn, tự tin hơn, giao tiếp tốt hơn và cháu không còn bỡ ngỡ khi bước vào lớp 1. Bên cạnh việc tuyên truyền với phụ huynh tôi luôn tạo sự gần gũi thương yêu trẻ, luôn tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm cũng như “nghệ thuật lên lớp” làm cho trẻ hứng thú hơn mỗi khi đến trường, để trẻ cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là 1 niềm vui”
- Luôn tìm và tổ chức những hoạt động vui chơi hấp dẫn, sưu tầm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động của trẻ nhằm thu hút trẻ đến lớp.
- Nhờ phụ huynh ở nhà có thể trò chuyện với trẻ bằng tiếng phổ thông, cho trẻ tiếp cận với thông tin đại chúng như mở tivi cho các cháu xem những chương trình thiếu nhi, ca nhạc, phim hoạt hình để giúp các cháu phát triển kĩ năng nghe và hiểu tiếng Việt tốt hơn
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động đầu giờ
Ví dụ: Khi trẻ đến lớp trẻ chào cô thì cô động viên khen bé ngoan, có thể hỏi trẻ : “Hôm nay ai đưa con đi học?” “Con đã ăn sáng chưa?” hay “Sáng nay mẹ cho con ăn gì?”
- Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi thường tổ chức cho các cháu đi dạo trong sân trường, khi thì tôi cho trẻ tưởng tưởng mình đang được đi du lịch lúc thi như đang được đi tham quan  trẻ rất vui và rất thích. Mỗi ngày khi đi dạo trong sân trường tôi thường đặt câu hỏi theo chủ đề đang thực hiện để trẻ trả lời
Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật
- Tôi tổ chức cho trẻ tham quan mô hình “Trang trại nhà bé”, tôi đặt câu hỏi gợi ý để trẻ trả lời “ Đây là con gì?”, “Nó sống ở đâu?”, “Thức ăn của nó là gì?”...
- Đa số trẻ đều dùng tiếng mẹ đẻ trả lời, trước tình huống đó tôi đã cho cháu biết tên của con vật đó đồng thời khuyến khích các cháu gọi tên con vật bằng tiếng Việt.
- Những lúc tổ chức cho các cháu chơi trò chơi dân gian hay chơi tự do tôi luôn tìm sẵn những bài thơ, bài vè, ngắn dễ đọc, dễ nhớ có trong chương trình, phù hợp với chủ đề để dạy cho các cháu, tôi luôn khuyến khích các cháu đọc, sửa sai cho những cháu đọc chưa đúng, đối với các cháu đọc chưa rõ ràng thì tôi dạy cho các cháu đọc từng câu.
- Trong những lúc rảnh tôi chải tóc hay sửa sang quần áo cho các cháu tôi thường đặt những câu hỏi để các cháu trả lời.
Ví dụ: Ai mua kẹp tóc cho con mà đẹp vậy? Nhà con có mấy anh em? Có em bé không?... qua những lúc trò chuyện với các cháu như vậy đã giúp tôi biết được cháu nào còn rụt rè nhút nhát, cháu nào còn sử dụng câu cụt hay cháu nào chưa phát âm rõ từ đó tôi dành nhiều thời gian gần gũi trò chuyện và tập cho cháu phát âm nhiều hơn, đồng thời giúp các cháu mạnh dạn hơn
Biện pháp 2: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua các giờ học
Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt.
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động khám phá khoa học:
- Đây là một môn học mà đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những “nghệ thuật lên lớp” hấp dẫn vì môn học này sử dụng phương pháp quan sát và đàm thoại, mà trẻ người dân tôc thiểu số thì rất hạn chế về ngôn ngữ tiếng việt. Trẻ chỉ có thể trả lời theo sự gợi ý của cô hoặc trả lời bằng câu cụt
- Môn khám phá khoa học là một trong những môn học giúp trẻ phát triển nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ.
Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật
Đề tài: Những con vật đáng yêu.
- Khi cho trẻ quan sát tranh con chó và tôi đố cả lớp đây là con gì? Thì trẻ trả lời “Asâo” (tiếng Việt có nghĩa là con chó) Trước tình huống đó tôi nói với các cháu: “cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của các con và các con nói tiếng của cô các con có đồng ý không?” và tiết học của chúng tôi đã trở thành một “cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng tiếng Việt mỗi khi cô đưa tranh ra.
Ví dụ:
Trẻ
Cô
Con Mèo
Miêu
Con Vịt
Bip
Con Heo
Ũn
- Một hạn chế mà trẻ người đồng bào thường mắc phải, đó là nói thiếu dấu
Ví dụ: “ Con vịt ” thì trẻ đọc là “ Con vit”
- Tôi hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời cho các cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ phát âm đúng, sửa sai và hướng dẫn cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng như hạn chế được lỗi mất dấu khi phát âm.
- Với hình thức “Thi tài” hay “Đố vui có thưởng” giữa cô và trẻ thì trẻ đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô
- Ví dụ : Chương trình “Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi: Con chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời: Thưa cô con chó là động vật sống trong nhà
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen với toán
- Tôi luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài. Điều này theo tôi nghĩ là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú hơn khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ đối với các cháu
Ví dụ: Chủ đề Gia đình
Đề tài: Đếm đến 6 - nhận biêt nhóm đồ dùng có 6 đối tượng - chữ số 6 Với đề tài này tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng gia đình như ly, chén, đũa tôi cho các cháu gọi tên và nói công dụng của từng đồ dùng, trẻ rất thích thú và rất vui khi mình nói đúng tên và công dụng của những đồ dùng đó. Mặc dù bên cạnh đó vẫn còn một số cháu dùng tiếng mẹ đẻ để gọi tên đồ dùng đó và với tình huống đó tôi đã khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên đồ dùng thì được tham gia trò chơi cùng với cô và trẻ nào cũng muốn mình được tham gia cuộc chơi, trẻ đã cố gắng gọi tên đồ dùng bằng tiếng Việt, và khi các cháu phát âm được các cháu rất vui.
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen văn học:
- Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong mọi hoạt động ở trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày và qua môn làm quen văn học tôi đã tích cực đưa ngôn ngữ tiếng Việt vào cung cấp cho các cháu.
- Thông qua tổ khối, chuyên môn chúng tôi đã thống nhất lựa chọn bài thơ, câu chuyện phù hợp với từng độ tuổi của trẻ, có nội dung dể hiểu và hấp dẫn đối với trẻ. Vì sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, chưa có ý thức trong hoạt động học tập. Nắm được nhược điểm này tôi đã luôn tìm tòi và sưu tầm những “nghệ thuật lên lớp” tạo ra mọi tình huống bất ngờ, hồi hộp, hay vui nhộnđể lôi cuốn sự tập trung chú ý của trẻ vào tiết học, khơi gợi tính tò mò, thích tìm hiểu và khám phá ở trẻ.
Ví dụ: Cốc ! cốc! cốc ! Dê con ngoan ngoãn mau mở cửa ra mẹ đã về rồi
cho các con bú (cô giả giọng chó sói hung ác) và muốn biết đó có phải là Dê mẹ không thì chúng mình hãy thật im lặng và lắng nghe xem Dê con có mở cửa không qua câu chuyện “Dê con nhanh trí” nhé.
- Với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, lúc hồi hộp, lúc gây cấn của cô đã lôi cuốn được trẻ vào giờ học và từ đó trẻ chăm chú lắng nghe cô kể và tiếp thu được lời kể của cô giáo. Cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện.
- Để cháu nhớ và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể kể nhiều lần bằng nhiều hình thức, khi kể cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ, giọng nói, hành động của từng nhân vật một cách rỏ ràng, phù hợp với tính cách của từng nhân vật để trẻ có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu là nhân vật hung dữ
Ví dụ: Nhân vật Dê mẹ thì ta thể hiện giọng nhẹ nhàng, hiền lành
Nhân vật Dê con khi nói chuyện với mẹ thì giọng ngây thơ trong sáng, còn khi nói chuyện với Chó sói thì giọng cứng rắn, gan dạ
Nhân vật Chó sói thì ta thể hiện giọng gian dối, xảo quyệt
- Tiếp theo cô tiến hành đàm thoại với trẻ, để tạo cho không khí sôi nổi hơn cô có thể dẫn dắt cuộc đàm thoại trở thành cuộc thi tài “các con thấy Dê con có thông minh không? Vậy bây giờ chúng mình hãy thi xem ai thông minh giống như bạn Dê con nhé”. Và cô đặt câu hỏi khuyến khích trẻ trả lờicô có thể mời các cháu lên kể chuyện theo tranh hay kể chuyện sáng tạo, đóng kịch(Cô có thể trang bị những chiếc mũ hoặc những đồ dùng của nhân vật để tạo sự lôi cuốn và thích thú cho trẻ hơn) và cô tuyên dương , khen trẻ kịp thời để khuyến khích trẻ, cô có thể thay lời nhân vật như “Dê mẹ thấy bạn A kể chuyện hay nên Dê mẹ đã thưởng cho bạn một món quà” và những trẻ khác chắc chắn sẽ cố gắng giống như bạn đó để được nhận quà.
- Đối với đọc thơ tôi luôn tạo cho trẻ sự chú ý tập trung bằng giọng đọc diễn cảm và không quên thể hiện cử chỉ điệu bộtiến hành cho trẻ đọc thơ bằng nhiều hình thức như (cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các nhân, đọc nối đuôi)
- Với những hình thức như vậy vốn từ tiếng Việt của trẻ lớp tôi đã tăng len một cách rỏ rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy tôi tiếp tục tìm tòi các biện pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu và tăng vốn từ tiếng Việt.
- Mỗi khi vào đầu giờ học tôi thường trò chuyện với các cháu, tạo cho các cháu sự thoải mái, không áp lực, gây cho cháu sự hứng thú, sự tập trung khi nghe cô trò chuyện hoặc đọc thơ. Tôi luôn luôn tập cho mình có một giọng kể cũng như lời dẫn dắt phù hợp với các tính cách của các nhân vật trong truyện tạo sự tập trung, lôi cuốn trẻ vào lời kể của cô, hay trong giờ đọc thơ tôi thường xuyên tập cho mình giọng đọc truyền cảm, lời đọc phù hợp với nội dung bài thơ lúc trầm, lúc bổng  nhằm tạo sự hứng thú cuốn hút các cháu tập trung hơn vì trẻ mẫu giáo một khi đã thích thì chú ý một cách say mê. Bên cạnh đó tôi luôn khuyến khích cho các cháu đọc lại bài thơ hay kể lại câu chuyện đã được nghe cô kể, không dừng lại ở đó trong những giờ kể chuyện tôi tập cho các cháu đóng kịch và điều này đã làm cho các cháu thích thú vô cùng, và đây cũng là một hình thức giúp các cháu phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động âm nhạc
- Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm đó mà trong giờ hoạt động âm nhạc tôi đã đưa môn tiếng việt vào cung cấp cho các cháu một cách triệt để, các cháu tham gia một cách rất say mê, tôi dạy cho các cháu hát những bài hát theo chủ điểm cũng như những bài hát trong chương trình mầm non Tổ chức cho các cháu cuộc thi “ Đồ Rê Mí”, tập cho các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu tên mình và biểu diễn cho các bạn xem cứ lần lượt như vậy và tất cả các cháu đều được lên hát, bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát và càng sôi động hơn khi được nghe nhạc không lời và các cháu là những ca sĩ thể hiện bài hát, thông qua đó các cháu đã dần dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát điều này cho tôi thấy các cháu có khả năng nghe và hiểu tiếng việt và tôi đã khuyến khích đồng thời tích hợp môn âm nhạc vào mọi hoạt động nhằm giúp các cháu phát triển vốn tiếng việt tốt hơn nữa
* Cung cấp vốn tiếng Việt qua hoạt động làm quen chữ cái
- Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói
- Để việc rèn kỹ năng phát âm cho trẻ dân tộc thiểu số đạt hiệu quả, trước hết giáo viên phải chuẩn về phát âm tiếng Việt, nếu giáo viên phát âm không chuẩn thì sẽ làm các em phát âm sai.
- Trong lớp tôi cũng có một số cháu nói được tiếng phổ thông nhưng không nhớ mặt chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt, các cháu thể hiện theo bản năng bắt chướcchính vì vậy mà việc dạy trẻ làm quen với chữ cái sẽ giúp trẻ nhận biết được chính xác cấu tạo của các chữ cái cũng như cách phát âm, để từ đó trẻ có thể nghe, cảm nhận, phát âm và tìm được chữ cái tương ứng trong từ
Ví dụ: Chủ đề Gia đình
Đề tài: Làm quen chữ cái e,ê.
- Cô tạo tình huống cho trẻ đến thăm nhà 1 bạn, bạn đó ở nhà rất ngoan và lớp mình có muốn ngoan giống bạn đó không, vậy bây giờ chúng mình hãy ngồi thật ngoan để xem mẹ bạn ấy tặng cho chúng mình món quà gì nhé (và tất nhiên trẻ nào cũng muốn mình ngoan giống như bạn)
- Cô có tranh “mẹ bế bé” dưới tranh cô có từ “Mẹ bế bé” cô cho trẻ đọc từ dưới tranh (Cả lớp cùng đọc)
- Cô đặt những câu hỏi cho trẻ trả lời: Trong từ “Mẹ bế bé có bao nhiêu tiếng?”
- Để chỉ từ “Mẹ bế bé” cô cũng có thẻ chữ cái rời ghép lại, bạn nào giỏi lên rút chữ đã học (trẻ lên rút chữ đã học và phát âm)
- Cô dẫn dắt tạo tình huống và giới thiệu hôm nay cô sẽ cùng với lớp mình làm quen với “Những chữ cái dễ thương” hay “Những chữ cái đáng yêu”nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô phân tích cấu tạo của chữ cái e,ê, cô giới thiệu cách viết và cho trẻ phát âm chữ cái e, ê. Cô cho trẻ quan sát và so sánh đặt điểm của hai chữ cái, cô gợi ý cho trẻ nêu được điểm giống và khác nhau để từ đó giúp trẻ nhớ lâu hơnvà để khắc sâu hơn về đặc điểm, cấu tạo và nhận biết chính xác các chữ cái, ta phải luôn tìm tòi, học hỏi và sưu tầm các trò chơi phù hợp với nội dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm được các chữ cái không những thế mà còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn.
- Ví dụ: như trò chơi “Chiếc nón kỳ diệu” hay trò chơi “Bánh xe chữ cái” trẻ quay vào trúng chữ cái nào cho trẻ phát âm chữ cái đó
* Cung cấp vốn tiếng việt qua giờ hoạt động góc
- Tất cả các góc chơi trong lớp tôi đều cho những ký hiệu riêng, khi trẻ chơi trẻ nhận biết đó là góc gì
- Giờ hoạt động góc tôi chuẩn bị sẵn các thẻ đeo cho trẻ (Vd: Trẻ chơi ở góc xây dựng thì đeo thẻ có hình chiếc bay của thợ xây, góc nghệ thuật thì thẻ có hình chiếc đàn) nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động hứng thú hơn, trẻ tham gia chơi một cách tự nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với nhau, trò chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, những lúc đó tôi đến bên các cháu trò chuyện trao đổi, nhập vai và đặt câu hỏi để các cháu trả lời.
Ví dụ: Chủ đề Ngành nghề
- Góc phân vai: Bán một số sản phẩm của nghề nông.
- Tôi hỏi trẻ “ Cà phê bao nhiêu tiền 1kg” “Chị ơi bán cho tôi 1kg đậu xanh” và tất nhiên trẻ thấy cô giáo cùng chơi với mình nên trẻ rất vui và đã bắt chước làm giống cô. Đến góc nghệ thuật, tôi đã gợi ý cho cháu chơi trò chơi “Đồ Rê Mí” và khuyến khích các cháu tự giới thiệu tên của mình, bao nhiêu tuổi và sở thích  Điều đó đã làm cho các cháu thực sự rất thích thú. Tôi nhận thấy qua giờ hoạt động góc trẻ rất hiếu động, mạnh dạn, tự tin và đăc biệt các cháu rất thích được trò chuyện với cô. Từ đó tôi luôn khuyến khích cũng như tạo cho trẻ những cuộc trò chuyện, đối thọai với nhau bằng tiếng Việt giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ để giúp các cháu phát triển ngôn ngữ đồng thời có thêm nhiều vốn từ tiếng Việt hơn nữa. và để hoạt động góc luôn hấp dẫn trẻ tôi đã sưu tầm và chuẩn bị nhiều đồ chơi, nguyên vật liệu mới lạ để lôi cuốn trẻ vào hoạt động, và trẻ hứng thú hơn khi chơi, cô bao quát trẻ trong lúc trẻ chơi, để ý và động viên hướng dẫn kịp thời những trẻ nhút nhát, chưa tự tin trong hoạt động, hoặc chưa thành thạo trong giao tiếp bằng tiếng Việt từ đó giúp trẻ tăng vốn từ tiếng Việt hơn.
Biên pháp 3. Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi
Để làm tăng hiệu quả trong việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ tôi nghĩ việc cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều hết sức cần thiết.
Như chúng ta đã biết trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt rất hạn chế. Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình cho trẻ làm quen với tiếng Việt ta cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái trong mọi hoạt động.
- Giờ đón trẻ cô luôn vui vẻ, tạo sự gần gũi, yêu thương trẻ, nhắc nhở trẻ cất đồ dùng đúng nơi qui định, chải tóc, lau mặt, sửa sang quần áo cho trẻ, trò chuyện thân mật, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ bằng một số câu hỏi như: “Hôm nay ai đưa con đi học ?” “Sáng nay mẹ cho con ăn gì?” “Nhà con có mấy anh em ?” “Ai mua áo cho con mà đẹp vậy ?”
- Qua trò chuyện với trẻ tôi nắm được khả năng nhận thức và phát âm của mỗi trẻ, trẻ nào còn sử dụng câu cụt, trẻ nào còn nhút nhát để từ đó tôi có những biện pháp phù hợp cũng như dành nhi

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN NGA 2015-2016_HOA SEN.doc