A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Anh là một ngôn ngữ Quốc tế có tính thông dụng và là một công cụ giao tiếp thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thời đại toàn cầu hoá, nhu cầu giao tiếp giữa mọi người thuộc mọi quốc gia là bắt buộc.
Do vậy, việc học tiếng Anh đang trở thành một nhu cầu cần thiết và cấp bách giúp chúng ta tiếp cận, mở rộng hiểu biết với nguồn tri thức tiên tiến trên thế giới ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Khoa học - kĩ thuật, kinh tế - xã hội, y học Tiếng Anh mặc nhiên trở thành ngôn ngữ toàn cầu.
Trên cơ sở đó, trong lãnh vực giáo dục, Bộ GD – ĐT đã có định hướng chiến lược cho việc tổ chức dạy học môn Tiếng Anh trong trường tiểu học nhằm tạo điều kiện, môi trường cho học sinh được tiếp xúc với môn học này, tạo tiền đề cho việc học lên các cấp học trên được vững chắc. Hiện nay tất cả các trường Tiểu học trên toàn quốc đã dạy chương trình Tiếng Anh bắt đầu từ lớp 3 và một số trường đã dạy chương trình Tiếng Anh ngay từ lớp 1. Trong đó có trường đã dạy theo chương trình 4 tiết /tuần.
với học sinh tiểu học, lứa tuổi ham tìm tòi, khám phá nhưng tư duy tập trung chưa cao thì nhằm kích thích sự chú ý, hứng thú học tập của các em, người giáo viên cần biết lựa chọn, xen kẽ các trò chơi học tập phù hợp, bổ ích. Đó chính là một trong những phương pháp đổi mới cách dạy học và học sao cho “ Học mà vui, vui mà học’’. Trò chơi phù hợp và bổ ích nhằm giúp các em tiếp thu kiến thức nhanh hơn, củng cố kiến thức sâu hơn mà tránh những bài giảng khô khan, cứng nhắc. Nhờ đó, giáo viên tiết kiệm lời giảng mà giờ học vui, sinh động, gây hứng thú, chú ý sự tập trung của học sinh. Thông qua trò chơi, các em chủ động tự tìm ra kiến thức, biết sáng tạo, củng cố, tạo sự chính xác về kiến thức. Trò chơi phù hợp còn là biện pháp cần thiết khắc sâu tri thức giáo dục. Do đó, để phát huy được hết tác dụng của trò chơi, người giáo viên khi áp dụng trò chơi phải biết lựa chọn để thể hiện sự thống nhất giữa mục đích, nội dung, phương pháp nhằm tác động tích cực đến sự hình thành và củng cố kiến thức của học sinh. Trò chơi phải bổ ích và phù hợp với lứa tuổi, trình độ của các em. Ngoài ra, khi tổ chức trò chơi, người giáo viên cần sáng tạo linh hoạt trong tổ chức mới phát huy được hết ưu điểm, tính hiệu quả của trò chơi. II. Cơ sở thực tiễn Trong suốt quá trình học, nếu chỉ dạy mãi cho các em kiến thức, giảng giải theo các tài liệu sẵn có trong sách giáo khoa, trong sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, sẽ gây nhàm chán (nhất là ở lứa tuổi của các em) và làm cho học sinh học tập một cách thụ động, máy móc. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không có hiệu quả. Do đó, việc tổ chức trò chơi sẽ giúp các em nhanh chóng khắc sâu kiến thức bài học . Đây là một lí do để cho tôi tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào đề tài này vào thực tiễn giảng dạy hàng ngày. Sau đây là một số bài học được tôi vận dụng vào trò chơi và đạt được những kết quả nhất định. Thông qua trò chơi, học sinh sẽ hiểu sâu bài và phát huy được tính tích cực, chủ động, khả năng tự khám phá, tìm tòi, củng cố kiến thức cho học sinh . III. Ý nghĩa tác dụng của việc tổ chức trò chơi Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá trình hoạt động bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi . Trò chơi là loại phổ biến của hoạt động vui chơi, là chơi theo luật, luật của trò chơi chính là các quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của hành động trò chơi, luật của trò chơi phải rõ ràng . Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi. Thông qua chơi, học sinh được vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học vào trong tình huống của trò chơi. Do đó, học sinh được thực hành luyện tập củng cố, mở rộng kiến thức và kỹ năng đã học. Như vậy, các kỹ năng học tập của môn Tiếng Anh được đưa vào trò chơi. Có thể nói: Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh ở bậc tiểu học, nó quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống của các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động, khi chơi các em biểu lộ tình cảm hết sức rõ ràng, như niềm vui khi thắng lợi và buồn bã khi thất bại. Vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân các em thấy có lỗi khi không làm tốt được nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ, nhóm trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi, học sinh thường vận dụng hết khả năng sức lực, tập chung sự chú ý, trí thông minh và sự sáng tạo của mình . Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác và tích cực . Giúp học sinh rèn luyện, củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi. Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui mà vẫn hấp dẫn hơn, cơ hội hoạt động đa dạng hơn, trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục . IV. Thực trạng vấn đề Về phía giáo viên Qua dự giờ thăm lớp, tìm hiểu tư liệu giảng dạy, trao đổi một số kinh nghiệm với đồng nghiệp, thực tế giảng dạy ở trường tiểu học tôi nhận thấy việc tổ chức trò chơi học tập bố trí chưa hợp lý nên các em chưa phát huy được hết khả năng của mình. Sở sĩ có tình trạng trên là do giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa, tác dụng của trò chơi trong giờ học tiếng Anh. Một số giáo viên vẫn chưa linh hoạt, chưa biết lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với nội dung, chưa gắn liền hoạt động dạy học với ứng dụng thực tiễn, chưa tạo ra được hứng thú tích cực học tập của học sinh. Sau khi trao đổi và thực dạy trên lớp, dự giờ đồng nghiệp bản thân tôi đã đúc kết được kinh nghiệm và thực hiện tổ chức một số trò chơi nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức tốt hơn và nhớ bài học lâu hơn. Về phía học sinh : Đối với học sinh tiểu học, nhận thức của các em chưa cao đặc biệt là các em còn ham chơi, chưa chú ý học tập. Do vậy, trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ...để củng cố khắc sâu kiến thức, tạo hứng thú cho các em giúp các em yêu thích say mê môn học. 3. Khảo sát tình hình học sinh: Đây là kết quả kiểm tra cuối năm học 2017-2018 của 2 lớp trước khi tôi áp dụng sáng kiến này : HS Sĩ số Bài KT Giỏi Khá TB 4B 60 22% 62% 16% 4C 60 25% 58% 17% Căn cứ vào kết quả bài kiểm tra trắc nghiệm này tôi thấy được những khó khăn, hạn chế trong việc dạy bài học. Do vậy, tôi đã nghiên cứu tìm những phương pháp mới để dạy cho học sinh tiểu học và đã đề ra 3 mục tiêu cơ bản là : * Thứ nhất: Giúp học sinh hiểu và nhớ chúng một cách nhanh nhất. * Thứ hai: Tạo hứng thú cho học sinh say mê học tập và tập trung thật cao độ trong giờ học. * Thứ ba: Học sinh học một cách chủ động, sáng tạo và có cơ hội thực hành nhiều, thường xuyên. Khi dạy nói Tiếng Anh cho học sinh tiểu học là dạy cho các em bước đầu làm quen với việc sử dụng một ngôn ngữ mới. Vì vậy, ta phải tạo cho các em có được niềm say mê và hứng thú trong học tập. Để làm được điều này thì cần phải đơn giản hoá mọi nội dung sao cho phù hợp với lứa tuổi nhỏ, tạo cho các em một không khí học tập thật sôi nổi, vui vẻ và hào hứng chủ động sáng tạo. Qua đó, các em có thể học mà chơi, chơi mà học. Chính vì thế, chúng ta phải vận dụng lồng ghép các trò chơi vào các tiết dạy và trong quá trình giảng dạy, tuỳ từng nội dung bài học phải lựa chọn trò chơi cho thật phù hợp . V. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI Để các trò chơi mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức và thiết kế các trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau: * Thiết kế trò chơi trong giờ học Tiếng Anh: Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn Tiếng Anh nói chung và môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể đưa các trò chơi cho phù hợp. Xong muốn tổ chức được trò chơi trong việc dạy môn Tiếng Anh cho hiệu quả cao thì mỗi giáo viên Tiếng Anh phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau : + Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục. + Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học. + Trò chơi phải phù hợp với tâm lý, trình độ học sinh, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và điều kiện cở sở vật chất của trường. + Hình thức trò chơi phải phong phú, đa dạng và phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ càng. + Trò chơi phải gây được hứng thú và niềm say mê học tập đối với học sinh. * Cấu trúc của trò chơi học tập: + Tên trò chơi + Mục đích của trò chơi Nêu rõ mục đích nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi + Đồ dùng trò chơi: Mô tả đồ dùng trò chơi dược sử dụng trong trò chơi học tập. + Luật chơi: Nên nêu luật chơi, chỉ rõ quy tắc của hành động chơi được quy định đối với người chơi, quy định thắng thua của trò chơi. + Số lượng người chơi: Cần chỉ rõ số lượng người tham gia trong mỗi trò chơi. + Cách chơi: Nêu rõ ràng, cụ thể và đơn giản của mỗi trò chơi . * Cách tổ chức trò chơi: - Thời gian tiến hành trò chơi: Thường từ 5 - 7 phút. - Cách thức chơi: Đầu tiên là giới thiệu trò chơi : Nêu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi bằng vừa mô tả vừa thực hành và nêu rõ quy định chơi. - Chơi thử nhằm hướng dẫn và nhấn mạnh luật chơi. - Tiến hành chơi thật: Học sinh tham gia chơi và giáo viên làm trọng tài. - Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi và những sai lầm cần phải tránh . - Kết thúc trò chơi: Thưởng phạt phân minh, đúng luật chơi sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh . Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản mà vui như vỗ tay, nhảy lò cò, hát một bài, hay chào các bạn thắng cuộc... VI. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH Sau đây, tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong quá trình dạy học cho học sinh tiểu học. Trò chơi 1: Slap the board ( Đập vào bảng ): - Thường được áp dụng trong phần kiểm tra từ mới của bài. - Mục đích: + Luyện đọc và củng cố kỹ năng nghe lại từ đã học và nhận diện mặt chữ . + Luyện phản xạ nhanh ở các em . - Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị bất kỳ đồ dùng nào. - Cách chơi: Cả lớp ngồi tại chỗ. Giáo viên giới thiệu tên trò chơi và vẽ một số hình khác nhau lên bảng: hình tròn, hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật, hình thoi, hình ê líp. rồi ghi lại một số từ mới vừa học vào các hình trên. Giáo viên đưa ra rước là giáo viên sẽ đọc tất cả là từ. Học sinh đứng trước bảng, nghe giáo viên đọc và đập nhanh vào chữ đó . - Luật chơi: Chơi theo cặp, giáo viên chia lớp làm hai đội và đặt tên cho mỗi đội, lần lượt mỗi đội cử ra từng bạn nên thi đấu với bạn của đội kia. Hai bạn đứng trước bảng ở một khoảng cách nhất định và nghe giáo viên đọc rồi nhanh chóng đập tay vào chữ giáo viên vừa đọc được ghi trên bảng, ai đập nhanh và đúng sẽ mang về cho đội mình 1 điểm. Tiếp tục với cặp thi đấu khác, kết thúc là đủ số từ mà giáo viên đã nêu ra trước khi đọc . - Kết thúc trò chơi: Cộng điểm đội nào nhiều điểm thì đội đó thắng, đội nào thắng sẽ được tặng một tràng vỗ tay. * Lưu ý: Trò chơi này cũng có thể cử ra một bạn giỏi lên để đọc những từ bất kỳ vừa ghi trên bảng cho hai bạn nghe nhận diện và đập tay vào hình có từ vừa đọc . Ví dụ: Unit 13 – What would you like to eat? (Lesson 1) –Grade 4 -Mục đích: Ôn một số từ về đồ ăn, đồ uống (beef, pork, orange juice, water..), rèn kĩ năng nghe cho học sinh. -Thời gian: 5 phút -Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị đồ vật nào. -Cách chơi: +Giáo viên vẽ một số hình ê líp và viết các từ chỉ đồ ăn, đồ uống vào các hình đó. +Giáo viên chia lớp hành 2 nhóm. + Giáo viên gọi theo cặp. Hai bạn đứng trước bảng, nghe cô đọc rồi nhanh chóng đập tay vào chữ được đọc vừa ghi trên bảng. +Bạn nào đập nhanh và đúng ghi được 1 điểm cho đội của mình. -Giáo viên tổng kết: Đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc. Trò chơi 2: Lucky number ( Con số may mắn ) : -Trò chơi này thường được áp dụng trong phần thực hành, củng cố bài, giúp học sinh nhớ được lâu hơn các từ vựng, mẫu câu đã được giới thiệu trước đó. - Mục đích: Tạo không khí hào hứng sôi nổi, tập trung cao độ trong giờ học . - Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị sẵn một số câu hỏi, câu trả lời bám sát nội dung bài học và không cần phải chuẩn bị bất cứ đồ dùng nào . - Cách chơi: Giáo viên kẻ một bảng gồm 15 ô vuông và ghi vào đó 15 số tự nhiên bất kỳ, trong đó tương ứng với những số đó là 12 câu hỏi mà học sinh phải trả lời, còn 3 câu là 3 con số may mắn gọi là Lucky number. Mỗi con số may mắn là mỗi điểm 10 và không có câu hỏi . - Luật chơi: Giáo viên chia lớp thành 2 đội và đặt tên, mỗi đội cử ra một bạn nhóm trưởng để oẳn tù tì xem ai được quyền chọn trước và trong nhóm thảo luận xem quyết định chọn chọn số nào cho nhóm trưởng nói, nếu chọn trúng câu có câu hỏi thì giáo viên đọc câu hỏi và cả nhóm phải thảo luận tìm ra câu trả lời cho nhóm trưởng đọc, trả lời đúng thì đạt 10 điểm; nếu sai đội kia được quyền trả lời . Lượt 2 đến đội kia chọn ô, nếu chọn vào ô may mắn thì không phải trả lời câu hỏi; được vỗ tay chúc mừng và đạt số điểm may mắn là 10 điểm . - Kết thúc trò chơi : Cộng điểm đội nào nhiều điểm thì đội đó thắng, khi đội nào chọn vào ô Lucky number sẽ được tặng một tràng vỗ tay . * Lưu ý: Có thể thay đổi để tăng tính cạnh tranh, tạo không khí hào hứng sôi nổi bằng cách quy định điểm, trong 15 ô thì 12 ô có 5 điểm, 2 ô có 10 điểm và một ô đặc biệt được 20 điểm . Trò chơi 3: Hangman - Thường được sử dụng trong phần khởi động vào bài mới (Warm-up). 1 2 3 4 5 6 7 8 - Mục đích: Tạo không khí sôi nổi hào hứng và say mê học tập giúp học sinh xem lại và kiểm tra vốn từ của mình . - Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị bất cứ đồ dùng nào . - Cách chơi: Các bước thực hiện chung: +Giáo viên gợi ý số chữ của từ cần đoán bằng số gạch ngang trên bảng . Ví dụ : CINEMA +Yêu cầu học sinh đoán bằng các chữ có trong từ. +Nếu học sinh đoán sai, giáo viên gạch 1 gạch (theo thứ tự trong hình vẽ ) Học sinh đoán sai 8 lần thì thua cuộc, giáo viên giải đáp từ . Cứ theo như các bước thực hiện chung như trên thì trò này chưa có sự thi đua giữa 2 đội. Vì vậy, trong quá thực hiện hầu hết các giáo viên có cải biến đôi chút để tăng phần hấp dẫn cho trò chơi. Ví dụ, giáo viên có thể chia lớp thành 2 đội và giáo viên chuẩn bị 2 nhóm từ khác nhau cho 2 đội, đội nào có nhiều đáp án hơn thì đội đó sẽ chiến thắng. Cách khác, giáo viên có thể chia lớp thành 4 đội, cho các đội chọn từ và đố nhau ( đội 1 đố đội 2 ; đội 2 đố đội 3 ; đội 3 đố đội 4 ; đội 4 đố đội 1) + Để học sinh tự điền khiển trò chơi cũng là một phương pháp tăng tính chủ động cho học sinh đồng thời giảm tải công việc cho giáo viên trên lớp. Chia lớp thành 2 hoặc 3 đội và đặt tên cho mỗi đội vào dưới chân giá treo cổ mà giáo viên vẽ trên bảng. Giáo viên quy định chủ đề hôm nay gì rồi ? yêu cầu học sinh tìm một từ có 5 chữ cái, sau đó mỗi có một em xung phong lên bảng viết từ đó ra và đọc to cho cả lớp nghe . + Tiếp tục loạt thứ hai mỗi đội lại chọn một bạn xung phong lên bảng ghi từ mình tìm được theo yêu cầu số lượng chữ cái của giáo viên. - Luật chơi: Phải tìm đúng từ có đủ số lượng chữ cái theo yêu cầu và viết đúng chính tả, đội nào sai sẽ bị viết một nét lên giá treo cổ của đội mình, nếu đội nào sai trong 8 lần là bị thua. Hoặc đội thua là đội bị hoàn thành một hình người hoàn thành trên giá treo cổ trước . - Kết thúc trò chơi: Tặng một tràng pháo tay chúc mừng đội thắng cuộc . * Lưu ý : mỗi lượt mà đội nào không có người lên bảng cũng bị viết một nét . Trò chơi 4: Noughts and crosses (X or O) - Thường được áp dụng trong phần luyện tập nâng cao, giúp học sinh luyện tập mở rộng các từ mới và cấu trúc đã học. - Mục đích: Củng cố, khắc sâu kiến thức, thu hút học sinh say mê học tập . - Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị đồ dùng . - Cách chơi: Chơi kiểu cờ ca rô . Giáo viên kẻ trên bảng 16 hoặc 20 ô vuông, gồm 4 ô hàng dọc và 5 ô hàng ngang và giáo viên điền vào đó 20 số bất kỳ, trong 20 số đó có 20 câu hỏi tương ứng được định sẵn theo nội dung bài học, chia làm 2 đội và quy định đội A đánh dấu X, đội B đánh dấu O . Đầu tiên mỗi đội cử 1 bạn làm nhóm trưởng đại diện chọn ô số bao nhiêu giáo viên sẽ đánh dấu bằng ký hiệu của đội đó vào ô đấy, đồng thời đọc câu hỏi định sẵn trong mỗi ô cho đội kia trả lời . Cuối cùng, đội nào chọn ô mà xếp được 3 ký hiệu của đội mình thẳng hàng là đội thắng cuộc. - Kết thúc trò chơi: Tặng một tràng pháo tay chúc mừng đội thắng cuộc . Trò chơi 5: Truyền điện - Thường được áp dụng trong phần khởi động vào bài mới hoặc kết thúc bài học. - Mục đích : Giúp các em kiểm tra vốn từ của mình và thay đổi không khí trong học tập. - Chuẩn bị: Không cần cầu kỳ, không cần chuẩn bị đồ dùng nào cả . - Cách chơi: Cả lớp ngồi tại chỗ, giáo viên nêu luật chơi và gọi bắt đầu từ một em A xung phong đứng lên nói to một động từ bằng Tiếng Anh, và chỉ nhanh vào một bạn khác bất kỳ để “ Truyền điện” lúc này em B phải nói tiếp 1 động từ, nếu nói đúng thì lại chỉ nhanh vào bạn C bất kỳ để truyền điện tiếp. Cứ làm như thế nếu bạn nào nói sai thì phải nhảy lò cò vòng quanh lớp . - Kết thúc trò chơi: Khen và thưởng một tràng pháo tay chúc mừng cho những bạn nói đúng và nhanh . * Lưu ý: Giáo viên phải phân biệt và phân tích từ loại cho học sinh đúng với bạn đầu tiên ( có thể là danh từ, động từ hay tính từ,....) đối với lớp khá, giỏi còn lớp trung bình thì không cần phân biệt từ loại. Trò chơi này không cần cầu kỳ nhưng vẫn gây được không khí vui, sôi nổi, hào hứng trong giờ học cho các em. Trò chơi 6: Ong tìm chữ - Thường được áp dụng trong phần luyện tập nâng cao, giúp học sinh luyện tập mở rộng các từ mới và cấu trúc đã học. - Mục đích: Củng cố kiến thức, nhớ từ và vận dụng kỹ năng sử dụng mẫu câu . - Chuẩn bị: Hai bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như sau, mặt sau có gắn nam châm . 10 1 3 6 7 5 2 4 8 9 + 10 chú ong trên mình có ghi các chữ sau, mặt sau có gắn nam châm . ten two one seven four eight five six three nine + Phấn màu. - Cách chơi : Chọn 2 đội, mỗi đội 5 em . Giáo viên chia bảng làm 2, mỗi bên bảng một bông hoa và 5 chú ong ở bên dưới không theo thứ tự, đồng thời giới thiệu tên trò chơi. cô có 2 bông hoa, trên những cánh hoa là những con số, còn những chú ong mang trên mình những chữ tương ứng, nhiệm vụ của các em là dẫn đường đưa những chú ong về số phù hợp . Hai đội xếp thành 2 hàng dọc, khi nghe hiệu lệnh “ bắt đầu” thì lần lượt từng bạn lên đưa chú ong về với số thích hợp . Xong bạn thứ nhất tiếp tục bạn thứ 2 và cho đến hết . Cuối cùng đội nào làm nhanh và đúng là đội đó chiến thắng . - Kết thúc trò chơi : Khen và thưởng một tràng pháo tay chúc mừng cho đội làm đúng và nhanh . * Lưu ý: Có thể thay thế các số trong cánh hoa bằng các từ Tiếng Anh và ngược lại. Ngoài ra, cũng có thể có một từ không phù hợp trên mỗi bông hoa xem những chú ong này có tìm được đường về không và vì sao, phải đổi chúng như thế nào . Trò chơi 7: Pastimes - Thường được áp dụng trong phần khởi động vào bài mới hoặc kết thúc bài học. - Mục đích: Kiểm tra vốn kiến thức từ vựng của học sinh, tạo không khí hào hứng trong học tập . - Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị bất cứ đồ dùng nào. - Cách chơi: Giáo viên vẽ 2 ông mặt trời có những tia nắng và chia lớp thành 2 đội đồng thời cho mỗi đội một viên phấn duy nhất để lên bảng viết một từ bất kỳ nào đã học, viết xong nhanh chóng chuyền phấn cho bạn khác trong đội mình lên viết . - Luật chơi: Khi nghe hiệu lệnh bắt đầu, các em trong mỗi đội thật nhanh lên bảng viết một từ bất kỳ, chỉ được viết duy nhất một từ cho mỗi lần và có thể lên nhiều lần, rồi lại chuyền phấn cho bạn khác. Trò chơi kết thúc trong vòng 3- 5 phút . - Kết thúc trò chơi : Khen và thưởng một tràng pháo tay chúc mừng cho đội nào viết đúng và nhiều từ hơn là đội đó thắng. * Lưu ý : Trong đội những từ trùng nhau chỉ được tính 1 từ. Trò chơi 8 : Simon says - Thường được áp dụng trong phần thực hành nâng cao, sau khi giới thiệu ngữ liệu mới cho học sinh. - Mục đích: Củng cố kỹ năng nghe cho học sinh . - Chuẩn bị: Không cần chuẩn bị đồ dùng nào cả. - Cách chơi: +Giáo viên yêu cầu cả lớp chơi. +Giáo viên đọc các câu mệnh lệnh học sinh phải làm theo mệnh lệnh của giáo viên. T (teacher): (nói với cả lớp) “Simon says, stand up” S (student): Cả lớp đứng dậy T: “Simon says, open your book”. S: Cả lớp mở sách ra. T: Không nói “Simon says” mà chỉ nói “Sit down” S: Không làm theo mệnh lệnh này vì giáo viên không nói “Simon says” +Giáo viên có thể sử dụng các mệnh lệnh mà học sinh đã biết. Khi nói mệnh lệnh giáo viên nên nói thật nhanh tạo cho trò chơi vui hơn và buộc học sinh phải chú ý và phản xạ nhanh hơn. Giáo viên có thể sử dụn
Tài liệu đính kèm: