Ta nhận thấy vấn đề duy trì của học sinh có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nhà trường, của xã hội. Tình hình bỏ học của học của học sinh gần đây đang là vấn đề mà chúng ta phải đặt lên hàng đầu mà chủ yếu là tập trung và các nguyên nhân sau :
- Nhà trường xây dựng kế hoạch còn chưa thật sự cụ thể mà vẫn mang tính chất chung chung. Công tác Đội chưa tổ chức tốt các phong trào vui chơi thiết thực, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.để thu hút học sinh tham gia. Khuôn viên nhà trường còn chật chội,thiếu chỗ bóng mát cho học sinh vui chơi.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp chưa phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp, còn thiếu quan tâm đến hoàn cảnh gia đình các em, đôi khi giáo viên cư xử còn thiếu tế nhị làm xúc phạm đến lòng tự ái của học sinh. Học sinh như đã nói ở trên phần lớn các em đi học không đúng độ tuổi, các em cũng chưa hiểu hết là “Học để làm gì ?”
- Không ít gia đình thiếu sự quan tâm đến việc học của con em mình, họ khoán trắng cho nhà trường, chưa kể đến là một số gia đình còn nuông chiều con quá mức khi nào cũng cho con mình là ngoan, là giỏi nhất nên dẫn đến thiếu sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Những ảnh hưởng xấu tác động ngoài xã hội đến nhận thức của các em như : phim ảnh không lành mạnh, các trò chơi điện tử , các chất gây nghiện.ảnh hưởng không nhỏ đến học tập của các em.
quen tuy sơ đẳng nhưng lại tối quan trọng như : chào hỏi, đi thưa, về gửi, không nói dối, không nói tục chửi thề....sẽ giúp trẻ ý thức được mỗi lời nói cũng như từng hành vi cử chỉ của mình. Nhận thức được vấn đề này, mới thấy được tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của gia đình với việc hình thành nên đạo đức lối sống cho các em, không buông lơi hay phó mặc các em cho nhà trường. d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Địa bàn xã Dray sáp là một xã thuộc khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt có Buôn Kuôp với hơn 80% là đồng bào dân tộc thiểu số. Do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, chủ yếu sống bằng nghề nông: Sản xuất với cây trồng chủ yếu là cà phê, lúa, mì cho thu nhập thấp.Do kinh tế khó khăn nên các em phải ở nhà giúp cha mẹ công: Trông em, đi rẫy, chăn bò, dẫn đến tình trạng các em hay vắng học vào những ngày mùa. Sự nhận thức của cha mẹ học sinh: Cha mẹ học sinh nhận thức còn thấp, họ chưa thấy được lợi ích lâu dài của việc học tập, họ cho rằng học chả làm ra tiền.Nhưng đi chăm bò, đi mót, đi rẫy thì mới có tiền.Chính vì vậy cha mẹ bắt các em ở nhà để đi làm, nhất là các em học sinh khối lớp 4, lớp 5 vì các em lớn hơn. Tâm sinh lý học sinh: Các em học sinh tiểu học còn nhỏ, đang tuổi ăn, tuổi chơi, nên không thích đi học gò bó, không được chơi thoải mái như ở nhà. Giáo viên chủ nhiệm chưa làm hết vai trò, trách nhiệm của mình: Giáo viên đôi lúc chưa chú trọng đến việc giúp HS đi học chuyên cần, nhiều khi chưa nhiệt tình, chưa động viên nhắc nhở Chưa gần gũi với các em, sự bất đồng về phong tục tập quán, ngôn ngữ. Hình thức tổ chức các giờ dạy còn đơn điệu, nghèo nàn, dễ tạo sự nhàm chán, ít kích thích sự hứng thú học tập của HS, gây tâm lí lo sợ cho các em mỗi khi kiểm tra bài, làm cho các em không thích đi học và thường xuyên nghỉ học. Chương trình học: Do các em là học sinh dân tộc, nên khi bước vào lớp một vốn Tiếng Việt của các em còn ít, thậm chí có em còn chưa nói rõ. Nhưng khi giáo viên giảng bài thì lại giảng bằng Tiếng Việt, dẫn đến việc tiếp thu bài gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó chương trình thì lại học chung cùng một chương trình với các bạn. Phải chăng như thế là quá tải với học sinh dân tộc.Một số buổi dạy phụ đạo về buổi chiều thì các em rất ít tham gia học dẫn đến một số em không theo kịp chương trình. Đọc sai, viết sai, cô sửa, cô nhắc nhở nhiều dẫn đến tự ái, buồn rồi nghỉ học. Thiếu sự quan tâm của ban ngành đoàn thể , thôn buôn: Các ban nghành, thôn buôn thiếu sự quan tâm,chưa nhiệt tình trong công tác vận động học sinh đi học chuyên cần, chưa phê bình, nhắc nhở thường xuyên trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, chưa có biện pháp nghiêm khắc đối với những gia đình có con em thường xuyên bỏ học, chưa có sự hỗ trợ về chính sách ưu đãi với các hộ gia đình khó khăn. Cơ sở vật chất nhà trường: Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn, thiếu sân chơi sạch sẽ cho các em, thiếu phòng chức năng, chưa có phòng máy tính (Phân hiệu Buôn Kuôp). Lớp học bụi bẩn, mùa mưa thì u ám, mùa nắng thì oi bức... e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Trường TH Dray Sáp nằm trên địa bàn xã Dray Sáp, có hai điểm trường. Điểm chính đặt tại thôn An Na, điểm lẻ đặt tại Buôn Kuôp, nằm trên địa bàn vô cùng khó khăn, phức tạp, phân hiệu của trường cách trường chính gần 10 cây số, đường đi vào phân hiệu mặc dù đã được nâng cấp song vẫn vô cùng vất vả. Vào mùa nắng bụi bặm, mùa mưa đường trơn như đổ mỡ, Nhưng đại đa số đội ngũ giáo viên rất yêu nghề ,bám trường, bám lớp. Mặc dù vây bên cạnh đó vẫn còn nhiều giáo viên chưa có chí tiến thủ, không mặn mà với các hoạt động dạy- học cũng như tham gia các phong trào,với suy nghĩ chỉ cần thực hiện nhiệm vụ ở mức hoàn thành, họ không quan trọng đến vấn đề thi đua,học sinh đi học có chuyên cần hay không cũng không cần quan tâm, chỉ biết đến tháng lĩnh lương đầy đủ là được. Năm học 2013 - 2014 trường có 16 lớp với tổng số học sinh 336 em, dân tộc thiểu số 191 em, chiếm tỷ lệ trên 50 %. Ngôn ngữ bất đồng, việc tiếp thu kiến thức, kỹ năng sống còn rất hạn chế. Nhiều em chưa biết rõ tiếng kinh. Trình độ dân trí thấp, đời sống còn rất nhiều khó khăn. Nhiều bậc cha, làm mẹ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học, chưa làm tròn trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đến con em, còn khoán trắng cho nhà trường. Một số em thỉnh thoảng cha mẹ bắt ở nhà đi chăn bò. Đến mùa vụ các em thường bỏ học đi lên nương, làm rẫy; vào những ngày mưa các em ít khi đến trường. Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn: chưa có phòng hiệu bộ, phòng chức năng. Phòng học ở phân hiệu thiếu và xuống cấp nặng, trường phải mượn phòng của Mẫu giáo để giảng dạy. Một số giáo viên chưa có ý thức xây dựng khối đoàn kết, chưa ủng hộ sự đổi mới cũng như giải pháp thực hiện của Ban giám hiệu nhà trường.Thậm chí có giáo viên chủ nhiệm học sinh nghỉ học gần chục ngày nhưng cũng không đến nhà học sinh.Điều đó cũng đã gây trở ngại cho nhà trường trong việc thực hiện nhiệm vụ duy trì sĩ số học sinh. Bản thân là một phó hiệu trưởng mới đảm nhận chức vụ được một thời gian ngắn nên kinh nghiệm chưa nhiều, nên đôi khi trong giải quyết công việc còn mang tính học hỏi, vừa làm, vừa học. Khi phân công chuyên môn cho giáo viên tôi yêu cầu giáo viên đi vào tìm hiểu, phân tích, tổng hợp lí lịch trích ngang của học sinh để nắm được cụ thể gia cảnh của từng học sinh. Những em có ý thức đạo đức tốt, được gia đình quan tâm đến việc học hành được sắp xếp ngồi cạnh những em chưa tốt. Bên cạnh việc quan tâm hỏi han đến cuộc sống sinh hoạt, học tập của học sinh. Tôi còn sắp xếp thời gian rảnh rỗi trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với các bậc phụ huynh những mong có sự kết hợp hành động một cách thống nhất, có hiệu quả từ hai phía Nhà trường và gia đình.Như trường hợp của em Trần Quốc Lợi , gia đình em khó khăn và bố mẹ bỏ nhau, em phải ở với bà ngoại, bà thì già yếu, bệnh tật không có thời gian lo cho em nên em thường xuyên nghỉ học để ở nhà phụ giúp gia đình. Tôi đã sắp xếp thời gian phối hợp với giáo viên chủ nhiệm đến thăm gia đình em, vận động gia đình cho em đi học. Ngoài ra còn trường hợp của một số em khác : Y’Đan Niê, H’Nuil Hlong,...cũng có hoàn cảnh rất khó khăn. Bên cạnh đó tôi còn hướng cho giáo viên chủ nhiệm tạo điều kiện học sinh của mình tham gia vào những hoạt động ngoại khóa bổ ích để hình thành cho các em lòng đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tình yêu thương giữa con người với con người, hướng các em vào các việc và các hoạt động như: Gây quỹ vì bạn nghèo, nuôi heo đất, quyên góp ủng hộ các bạn học sinh nghèo hơn đón tết Hướng các em vào viêc xây dựng tập thể lớp học tiên tiến, đoàn kết, vững mạnh. Bên cạnh đó cũng có những biện pháp khen thưởng, động viên kịp thời những em hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng như có biện pháp nhắc nhở, giáo dục những em chưa hoàn thành nhiệm vụ. Qua các hoạt động trên, tôi đã thu được một số kết quả khả quan như sau: * Về học tập: Các em đi học chuyên cần hơn, đã có ý thức học bài, làm bài, soạn bài trước khi đến lớp. Việc kiểm tra khảo bài 15 phút đầu giờ luôn được duy trì và giữ vững từ đầu năm học tới giờ. Việc nói chuyện riêng trong giờ học giảm rõ rệt. Các em đã hăng hái trong phát biểu ý kiến xây dựng bài, đã hình thành những đôi bạn cùng tiến, kiên trì vượt khó, giúp đỡ nhau trong học tập Tỉ lệ học sinh hoàn thành chương của cuối học kì I so với kết quả khảo sát đầu năm tăng lên rõ rệt, được thể hiện ở bảng số liệu sau: Đạt CKTKN Học kì Tỉ lệ học sinh đạt CKTKN Tỉ lệ học sinh chưa đạt CKTKN Đầu năm TSHS Tỉ lệ % TSHS Tỉ lệ % 244 73,5 88 26,5 Cuối kì 1 313 94,2 19 5,8 * Về đạo đức: Các em được cuốn hút, tham gia tích cực và các hoạt động chung của trường, lớp, biết yêu quê hương đất nước, kính trọng ông bà cha mẹ và những người thân trong gia đình, lễ phép với thầy cô giáo và những người lớn tuổi. Với bạn bè, em nhỏ, các em đối xử hòa nhã, thương yêu. Bên cạnh đó, qua các môn học tôi cũng đã chỉ đạo giáo dục lồng ghép cho học sinh lối sống nhân văn, biết noi gương các anh hùng, các tấm gương có trong nội dung bài học. Tôi cũng áp dụng các phương pháp dạy học mới, để phát huy ở các em tính năng động sáng tạo trong quá trình tiếp thu kiến thức ở trên lớp. Nếu thời gian đầu năm lớp học rất thụ động, các em ngại ngùng không tham gia xây dựng bài thì ở giữa kì I các em đã phát huy tính tích cực, tự giác hơn.Các giờ học diễn ra rất sôi nổi, hào hứng. Qua các tiết học ngoại khóa, Nha học đường, An toàn giao thông, các em biết vệ sinh thân thể, tự bảo vệ mình và mọi người xung quanh, có phản ứng mạnh trước sự rủ rê lôi kéo của bạn xấu, kịp thời tố giác với cô giáo Các khoản tiền ủng hộ nhân đạo, ủng hộ các bạn nghèo, ủng hộ các bạn vùng sâu vùng xa đón tết, nuôi heo đất giúp bạn khó trong học tập Các em đều tham gia đóng góp rất nhanh và số lượng nhiều , các giáo viên chủ nhiệm vận động các em có điều kiện tốt hơn đóng góp giúp bạn không có điều kiện. Ngoài ra ở mỗi tổ cũng có một quỹ nhỏ, khi cần thiết có thể trích ra mua đồ dùng học tập giúp đỡ các bạn nghèo, tình đoàn kết trong lớp được phát huy , cuối học kì I, xếp loại thi đua của cả lớp đều đạt từ khá trở lên. Do vậy trường tôi luôn hoàn thành các khoản tiền nhân đạo trước thời hạn. Đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến học sinh có nguy cơ bỏ học, không thích đến trường, đến lớp. Vấn đề mà tôi muốn nói đến là việc duy trì sĩ số cho học sinh dân tộc. Nói đến học sinh dân tộc nơi tôi đang công tác thì phần lớn các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con đông .Học sinh bị hổng kiến thức khá nhiều do các em bị mất kiến thức căn bản từ những lớp dưới, bên cạnh đó thiếu sự quan tâm của gia đình , cũng không thể không nói đến đại đa số các em hay nghỉ học , ham chơi là các em có độ tuổi quá chênh lệch so với các bạn cùng trang lứa. Ta nhận thấy vấn đề duy trì của học sinh có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nhà trường, của xã hội. Tình hình bỏ học của học của học sinh gần đây đang là vấn đề mà chúng ta phải đặt lên hàng đầu mà chủ yếu là tập trung và các nguyên nhân sau : - Nhà trường xây dựng kế hoạch còn chưa thật sự cụ thể mà vẫn mang tính chất chung chung. Công tác Đội chưa tổ chức tốt các phong trào vui chơi thiết thực, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp...để thu hút học sinh tham gia. Khuôn viên nhà trường còn chật chội,thiếu chỗ bóng mát cho học sinh vui chơi. - Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp chưa phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp, còn thiếu quan tâm đến hoàn cảnh gia đình các em, đôi khi giáo viên cư xử còn thiếu tế nhị làm xúc phạm đến lòng tự ái của học sinh. Học sinh như đã nói ở trên phần lớn các em đi học không đúng độ tuổi, các em cũng chưa hiểu hết là “Học để làm gì ?” - Không ít gia đình thiếu sự quan tâm đến việc học của con em mình, họ khoán trắng cho nhà trường, chưa kể đến là một số gia đình còn nuông chiều con quá mức khi nào cũng cho con mình là ngoan, là giỏi nhất nên dẫn đến thiếu sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Những ảnh hưởng xấu tác động ngoài xã hội đến nhận thức của các em như : phim ảnh không lành mạnh, các trò chơi điện tử , các chất gây nghiện....ảnh hưởng không nhỏ đến học tập của các em. II.3. Giải pháp, biện pháp a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Đưa ra các giải pháp, biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường nhằm làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc trong công tác quản lý hoạt động day- học. Xây dựng tập thể sư phạm thực sự đoàn kết; đội ngũ giáo viên, nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao với công việc; biết chia sẻ, gánh vác, giúp đỡ nhau vì nhiệm vụ chung, cùng nhau phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn của nhà trường ngày một đi lên. Bản thân tôi đã có 10 năm giảng dạy ở vùng với điều kiện khó khăn và rất tâm đắc với câu nói: “Muốn có học sinh thì phải hiểu học sinh”. Nghĩa là một khi muốn vận động các em đến lớp thì điều quan trọng với một giáo viên là phải nắm rõ về hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt, học tập của các em tại gia đình để rồi từ đó đưa ra những biện pháp vận động thuyết phục phù hợp. Cái này cần được quán triệt ngay từ đầu năm học. Cụ thể, ngay từ đầu năm học, nhà trường và mỗi giáo viên chủ nhiệm phải khảo sát điều tra để nắm vững hoàn cảnh học sinh, em nào cư trú tại các thôn, buôn nào, em nào hiện đang gặp khó khăn, có khả năng không tham gia học tập chuyên cần v.v.. Từ đó kịp thời động viên các em bằng hình thức kêu gọi hỗ trợ giúp đỡ trong khả năng có thể về vật chất và tinh thần, làm sao để các em đảm bảo “ba đủ” (đủ ăn, đủ mặc, đủ quần áo đến trường). Tôi còn nhớ hồi tôi mới lên nhận công tác ở trường này,nhìn gương mặt các em thật tội: Mỗi một bộ quần áo để đi học,mặt mũi thì nhem nhuốc, Cứ sáng mặc đi học thì đến chiều tối lại giặt sạch để ngày mai mặc tiếp. Thấy vậy, các thầy cô trong trường đã cùng nhau phát động chương trình xin quần áo cũ cho học sinh . Nhờ đó, không những học sinh trường tôi mà cả các em trường mầm non và tiểu học cũng có thêm quần áo để mặc. Việc này cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống tình trạng nghỉ học, bỏ học. Ngoài ra, quá trình tuyên truyền vận động từ lời nói, cử chỉ, hành vi phải thể hiện được sự chân thành, sự đồng cảm với hoàn cảnh của học sinh để tạo sự tin tưởng đối với phụ huynh và học sinh. Đặc biệt là tránh cách vận động khô cứng, nói những câu thiếu sức thuyết phục như : “Đi học đi, ở nhà làm gì” hoặc “Cho con đi học chứ sao lại bắt con ở nhà?” Tôi nhớ một lần tôi đi cùng cô Võ Thị Hiền đến nhà em Y’Đan Niê, học sinh lớp 4C để khuyên em trở lại trường. Hôm đấy, vừa thấy bóng tôi ở ngoài ngõ, nét mặt của em đã thoáng chút hoảng sợ, em lẩn tránh ra ngoài vườn rất nhanh. Tôi vào nhà, tìm mãi chẳng thấy em đâu cả. Khi nhìn ra ngoài vười thì trời ạ, em đang chui tận trong vườn cà phê chỉ còn thấy mỗi hai bàn chân .Tôi hiểu là cần phải thay đổi “chiến thuật” nên dỗ dành: “Ừ, không đi cũng được, nhưng ra đây với cô. Không sao đâu!”. Cuối cùng thì em ấy cũng chịu chui ra khỏi vườn cà phê Tôi vừa chải đầu, chỉnh lại quần áo cho em, vừa nói rõ tác dụng của việc đến trường, tất nhiên là theo cách đơn giản, dễ hiểu nhất. Cô trò cứ thủ thỉ với nhau, và tôi mừng khôn xiết khi em ấy ngập ngừng nói: “Ngày mai em sẽ đi học cô ạ!”.Vậy là bước đầu tôi đã thành công rồi đấy! b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Tổ chức điều tra nắm hoàn cảnh của từng học sinh ngay từ đầu năm học: Phân công những giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn và nhiệt tình trong công tác làm chủ nhiệm các lớp. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác bàn giao lớp giữa giáo viên chủ nhiệm cũ cho giáo viên nhận lớp mới, rà soát những học sinh học yếu kém có nguy cơ bỏ học , tìm hiểu hoàn cảnh sống của gia đình, công việc thường ngày của học sinh ở nhà và kinh tế gia đình ....Theo số liệu điều tra một số gia đình học sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn cần giúp đỡ năm học 2014- 2015, Nhà trường có 41 học sinh thuộc diện khó khăn trong đó có 04 học sinh là hộ nghèo là những học sinh nghèo có nguy cơ bỏ học . Là Phó hiệu trưởng nhà trường, tôi đã cùng giáo viên chủ nhiệm nắm bắt tình hình cụ thể ngay từ đầu năm để kịp thời tìm ra giải pháp, chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp kết hợp cùng các ban ngành đoàn thể trong địa bàn tìm biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tham gia học tập. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp xây dựng mối quan hệ với gia đình học sinh ngay từ đầu năm học, điều tra lập sổ theo dõi học sinh. Ngay từ đầu năm học mới trong những cuộc họp hội đồng , họp chuyên môn của nhà trường ,kế hoạch đưa ra cho giáo viên chủ nhiệm là: nhắc nhở giáo viên liên lạc thường xuyên với phụ huynh học sinh của lớp sẽ giúp cho chủ nhiệm nắm bắt rõ hơn về biểu hiện của học sinh về ý thức học tập hàng ngày ở trường, ở nhà, kiểm tra những trang bị cần thiết của học sinh trong học tập như : Đồ dùng học tập, sách giáo khoa, cặp sách tối thiểu có hay không, đế báo lại cho nhà trường biết tìm biện pháp giải quyết kịp thời .Yêu cầu giáo viên đến thăm gia đình PHHS và giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một khi hiểu rõ học sinh của mình hơn thì giáo viên chủ nhiệm sẽ có nhiều giải pháp thiết thực hơn để giúp học sinh của mình duy trì tính chuyên cần của các em. Khi có học sinh bỏ học thì giáo viên chủ nhiệm cần phải thông báo ngay cho Ban giám hiệu nhà trường, đồng thời sắp xếp thời gian gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin cùng nhau tìm các giải pháp phối hợp tốt hơn đưa học sinh trở lại trường. Đối với những phụ huynh học sinh tích cực quan tâm đến tình hình học tập của con em thì họ sẽ tích cực ủng hộ nhà trường nhằm tìm giải pháp tốt nhất duy trì sĩ số học sinh trong nhà trường để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục. Một hình thức không thể thiếu được trong việc giúp học sinh có ý thức học tập tốt là xây dựng góc học tập cho học sinh ở nhà dù chỉ là những vật dụng đơn giản nhưng vẫn có chỗ yên tĩnh để các em học bài. Tổ chức cho học sinh học theo nhóm có hướng dẫn của giáo viên tăng cường thêm một số buổi trong tuần để giúp đỡ, kèm cặp các em trong học tập, giúp các em gắn bó với nhau hơn, có điều kiện trao đổi bài và giúp nhau cùng tiến bộ. Trong các kỳ họp phụ huynh các lớp, bản thân tôi luôn xắp xếp thời gian dự họp với những lớp có học sinh bỏ học nhiều, học sinh học kém, học sinh cá biệt để nắm bắt nguyện vọng của phụ huynh, thông báo những chế độ chính sách cho phụ huynh hiểu, có kế hoạch kiến nghị lên cấp trên kịp thời những yêu cầu của PHHS đề nghị UBND xã miễn giảm học phí cho học sinh nghèo, đồng thời vận động học sinh trong nhà trường, các nhà hảo tâm, chính quyền hỗ trợ vở viết, sách giáo khoa, tổ chức thăm hỏi, động viên các gia đình gặp hoàn cảnh không may mắn đã tạo được tình cảm gắn bó, tinh thần đoàn kết tương trợ cùng nhau vượt qua khó khăn để học tập như: Học bổng “ Thắp sáng ước mơ ”. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục ngoại khóa và các trò chơi dân gian để thu hút học sinh “Vui mà học – Học mà vui”. Ngoài các giải pháp nêu trên, một kế hoạch không thể thiếu là kế hoạch chuyên môn, tôi cũng chú trọng chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt các hoạt động văn nghệ , thể dục thể thao, để các em có thời gian thư giãn, vui tươi trong học tập, đoàn kết trong tập thể, hào hứng trong công việc, đây cũng chính là nội dung xây dựng “ trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ Giáo Dục và đào tạo, tạo điều kiện cho học sinh khi đến trường được an toàn, thân thiện, vui vẻ, tạo cho các em cảm giác “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” Tổ chức cho học sinh chơi những trò chơi dân gian trong ngày khai giảng ,các đợt hội thao, hội khỏe, các giờ sinh hoạt của trường, để thu hút học sinh tham gia hoạt động và thư giãn vui vẻ sau những ngày học tập căng thẳng. Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn,cùng thảo luận thống nhất ý kiến với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các nhà hảo tâm, hội khuyến học của trường giúp đỡ học sinh quần áo, sách vở, dụng cụ học tập, tặng học bổng cho học sinh nghèo vượt khó học giỏi. Một số em có hoàn cảnh mồ côi cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn như các em : Y’Đan Niê lớp 4B, Nguyễn Quốc Khánh lớp 4A, Nguyễn Ngọc Luận lớp 5A, H’Nuil Hlong lớp 4C. Bản thân tôi chỉ đạo, phối hợp tốt hình thức hoạt động của Đoàn - Đội trong nhà trường, tổ chức Đoàn - Đội là một tổ chức mạnh để các em học sinh tham gia rèn luyện ý thức. Hàng ngày các thành viên trong tổ tự quản theo dõi số học sinh nghỉ học ở các lớp. Chỉ đạo cho Bí thư đoàn trường và Tổng phụ trách đội phải luôn là người sát cánh cùng giáo viên chủ nhiệm lớp, cùng tổ chức các hoạt động như: Sinh hoạt thường kỳ ở chi đoàn, sinh hoạt liên chi đội và các hoạt động đoàn đội để thu hút học sinh trong sinh hoạt thi đua. Nhờ vậy mà phong trào của lớp ngày càng có nhiều tiến bộ vượt bậc.Tổ chức sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể thao v
Tài liệu đính kèm: