SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc

SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc

Để khắc phục sai lầm này đòi hỏi giáo viên trong khi dạy phải hết sức tỉ mỉ, hướng dẫn cho học sinh cách đặt tính, đặt dấu bằng, phần nguyên thẳng phần nguyên, phần thập phân thẳng phần thập phân, dấu phẩy thẳng dấu phẩy, đến quy trình tính phải cẩn thận thì mới tập được cho các em kĩ năng tính toán thành thạo, chính xác. Những chi tiết dù rất nhỏ nhưng nếu giáo viên chú ý sửa sai thường xuyên, uốn nắn kịp thời thì dần dần trở thành thói quen, tạo ý thức tốt cho các em tính toán.

Khi tính toán phải thực hiện phép tính từ phải sang trái, dấu phẩy hạ thẳng cột, nhắc nhở nhiều lần sẽ giúp học sinh hình thành khả năng tính toán. Giáo viên có thể luyện cho học sinh bằng nhiều cách: lúc đầu giáo viên đặt tính cho học sinh tính, sau đó giáo viên cho phép tính rồi học sinh tự đặt tính và tính, cuối cùng cho các em thử lại kết quả tính để tạo thói quen tự kiểm tra kết quả của mình cũng như củng cố sâu hơn mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ số thập phân.

b) Với phép tính nhân

+ Sai do quên nhớ: Khi thực hiện nhân số thập phân học sinh thường mắc sai lầm nhất là quên nhớ khi nhân dẫn đến kết quả sai.

Ví dụ:

 Tính đúng:

 75, 3

 1, 6

 4518

 753

120,48 Tính sai:

 75, 3

 1, 6

 4508

 753

120,38

Để khắc phục điều này vào thời gian ôn tập buổi 2 tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm ra thêm các bài tập dạng nhân số thập phân có nhớ để học sinh làm thêm, sau đó gọi một số em thường xuyên quên nhớ lên bảng làm và để cả lớp cùng phát hiện nhắc nhở nhiều lần để bản thân học sinh cũng như cả lớp tránh được lỗi sai này, dần dần các em tự tạo cho mình thói quen nhớ khi tính toán có nhớ.

+ Sai do xác định vị trí dấu phẩy sai: sai lầm này học sinh dễ mắc phải nhất do nhầm lẫn với cách đặt dấu phẩy ở phép cộng trừ hoặc do các em chưa nhớ kĩ quy tắc. Để khắc phục sai lầm này ngay từ bài đầu tiên của phép nhân sau khi hình thành cách nhân tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho học sinh ghi nhớ cách nhân ngay tại lớp và cho thêm một số ví dụ vận dụng nhấn mạnh cách đặt dấu phẩy để học sinh ghi nhớ cách đặt dấu phẩy. Học xong bài nhân số thập phân với số thập phân tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho học sinh so sánh hai dạng nhân và nhấn mạnh cách xác định dấu phẩy để học sinh thực hiện thành thạo.

 

doc 14 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 2043Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p dưới các em chưa giải được. 
Trong các nội dung của môn Toán ở lớp 5 nói riêng thì nội dung về số thập phân là một nội dung quan trọng và khó nhất đối với học sinh. Nội dung này có khối lượng kiến thức lớn và khá trừu tượng. Thực tế cho thấy rằng khi học về nội dung này, đặc biệt khi học về các phép tính với số thập phân rất nhiều học sinh gặp khó khăn. 
Trong những năm qua thực tế tại đơn vị trường mà gần 100% học sinh là người dân tộc thiểu số, phụ huynh học sinh rất ít quan tâm và đầu tư đến việc học của con em mình. Vì vậy, để duy trì sĩ số, nâng cao tỷ lệ chuyên cần, giáo dục cho các em có những kỹ năng sống cơ bản cũng như nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và chất lượng giáo dục mũi nhọn là cả một vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, những năm gần đây nhờ sự chỉ đạo sát sao của phòng giáo dục, ban giám hiệu nhà trường, sự nỗ lực của giáo viên và sự quan tâm của xã hội nên các em đi học đã đầy đủ hơn, chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn đã được nâng lên rất nhiều. 
Trong những năm qua, giáo viên đã có những biện pháp nhằm giúp học sinh có kĩ năng thực hiện 4 phép tính với số thập phân nhưng vẫn còn một số học sinh chưa thành thạo trong khi làm bài, đặt tính chưa chuẩn khi cộng, trừ số thập phân, hay nhầm lẫn trong lúc tính toán, chưa xác định dấu phẩy ở tích khi nhân số thập phân với số thập phân, thường hay quên nhớ khi tính, quên thực hiện bước tính khi nhân với thừa số có số 0, có em chưa nắm được cách chia số thập phân, ước lượng thương trong phép chia còn chậm. Để việc học tập của học sinh khối 5 nói riêng và học sinh tiểu học nói chung có hiệu quả góp phần vào việc giáo dục, đào tạo các em học sinh nơi vùng đặc biệt khó khăn trở thành những công dân hữu ích, mạnh dạn, tự tin trong học tập. Tôi mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc”. 
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Thực trạng của vấn đề 
Thông thường trình độ của các em phát triển không đồng đều, dù các em học chung một lớp, một giáo viên giảng dạy, có em nắm bắt kiến thức và xử lí rất nhanh nhưng cũng có nhiều em xử lí rất chậm làm cho giáo viên rất khó khăn trong khi giảng dạy. 
Thực tế trong quá trình giảng dạy giáo viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học, kỹ thuật dạy học khác nhau trong một tiết học cũng như trong cả năm học và nhận thấy học sinh đã nắm được kiến thức cơ bản và có các kỹ năng tính toán cần thiết. Tuy nhiên, các em chưa được thuần thục, còn hay mắc sai lầm khi tính toán, vận dụng do một số nguyên nhân sau: 
+ Về phía giáo viên: Do chủ quan nghĩ rằng các em đã làm tốt các phép tính với số tự nhiên dần đến khi hướng dẫn học sinh thực hiện các phép tính với số thập phân thường để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức dẫn đến một số sai sót như: đặt tính chưa thẳng cột dẫn đến sai kết quả (cộng, trừ), khi thực hiện nhân quên nhớ, quên viết thêm chữ số 0 khi nhân với thừa số có chữ số 0 ở giữa, nhầm lẫn nhiều nhất là ở phép chia (quên dấu phẩy, quên thêm 0 vào bên phải phần thập phân của số bị chia khi gạch dấu phẩy ở cả số bị chia lẫn số chia), 
+ Về phía học sinh: Việc nhận thức về vị trí, vai trò của môn học của các em còn chưa sâu sắc, các em chưa chú trọng vào môn học. Tinh thần thái độ học tập của các em còn chưa tự giác, chủ động. Kỹ năng thực hiện phép cộng, trừ, nhân, chia các số tự nhiên còn hạn chế. Việc lĩnh hội nắm bắt kiến thức của các em ở các nội dung trước còn chưa đầy đủ, chưa vững chắc, chẳng hạn như: Kỹ năng chia nhẩm, kỹ năng ước lượng thương trong phép chia còn chậm, yếu do chưa thuộc bảng nhân, chia và còn thiếu kinh nghiệm. . . Việc thực thành luyện tập rèn luyện kỹ năng chưa thường xuyên. 
+ Về phía phụ huynh học sinh: mặt bằng dân trí của một bộ phận người dân còn hạn chế nên chưa quan tâm nhắc nhở con cái học hành. Ngoài ra, một số học sinh ở cách xa trường, gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn (gần 100% học sinh thuộc diện hộ nghèo), các em lớp 5 đã lớn đến mùa vụ thường phải giúp bố mẹ làm việc nên ảnh hưởng đến tỉ lệ chuyên cần do đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập nhất là môn toán. 
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2017-2018:
Tổng số học sinh
Kỹ năng tính toán, vận dụng tốt
Kỹ năng tính toán tốt
Kỹ năng tính toán còn hạn chế
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
19
1
5,3%
8
42,1%
10
52,6%
2. Các nội dung, biện pháp rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc 
2.1. Giải pháp1: Giáo dục học sinh lòng yêu thích, say mê toán học
Để thực hiện được việc này một cách có hiệu quả, trước hết giáo viên cần tạo ra một không khí tự nhiên, thoải mái cho lớp học để các em cảm nhận được “Mỗi ngày đến lớp, đến trường là một ngày vui”. Nội dung dạy học Toán đều có những chương, những bài gần gũi với đời sống hằng ngày, phù hợp với từng đối tượng tạo điều kiện để tất cả các em đều có thể tự tìm được cách giải quyết vấn đề. Khi hướng dẫn học sinh tìm tòi kiến thức mới, giáo viên cần luôn tạo ra những tình huống có vấn đề dẫn học sinh đến những thắc mắc để rồi muốn tìm cách giải quyết. . . 
Bên cạnh đó giáo viên dành thời gian tiết hoạt động tập thể cuối tuần kể cho các em nghe một số câu chuyện về các danh nhân, người nổi tiếng trong lĩnh vực toán học, kể các câu chuyện về các bạn nhỏ có hoàn cảnh khó khăn vẫn cố gắng học tập, . . . nhằm bồi dưỡng cho học sinh sự cố gắng vươn lên trong học tập từ đó sẽ có lòng say mê học toán. 
Ngay trong tuần ôn tập nói về vai trò và tác dụng của toán học đối với cuộc sống và con người: giúp con người rèn luyện cách suy nghĩ tư duy độc lập cho mỗi công việc khác nhau rất có ích cho mỗi con người. Nhờ các công thức toán học mà chúng ta có thể có được cuộc sống hiện đại với các tiện nghi máy móc phục vụ cho mọi nhu cầu của con người. Trong toán 5 có nhiều vấn đề liên quan đến thực tế mà các em có thể giúp cha mẹ ngay từ bây giờ: giúp cha mẹ tính toán diện tích ruộng nương, tính số lương thực thu được xem có cao hơn vụ mùa trước hay không? vì sao cao hơn? . . . Hỗ trợ cha mẹ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Bên cạnh đó, giáo viên cũng giúp học sinh hiểu rằng toán học là một trong những nhân tố rất quan trọng đối với mỗi người. Ngoài việc cung cấp cho ta những ý niệm, kỹ năng, thói quen cần thiết cũng góp phần hoàn thiện nhân cách con người, thì toán học có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển tư duy của mổi người (tư duy logic và ngôn ngử chính xác, suy đoán và tưởng tượng, tư duy thuật giải, tư duy hình tượng) theo hướng tích cực và góp phần giải quyết nhu cầu thực tế. Những kiến thức về số tự nhiên, phân số, số thập phân và các kỹ năng tính toán cơ bản (cộng, trừ, nhân, chia) vốn hay được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. 
Từ sự yêu thích và thái độ học tập tích cực đối với môn Toán, khơi dậy niềm đam mê, hứng thú trong học tập để học sinh dần hình thành thói quen tự học và có trách nhiệm hơn trong học tập. 
2.2. Giải pháp 2: Xây dựng nề nếp học toán
Xây dựng cho học sinh những thói quen, cách học hợp lí có trật tự để mang lại hiệu quả cao trong học tập nhất là trong học Toán. Ngay từ đầu năm học hướng cho học sinh bầu chọn Hội đồng tự quản lớp gồm các bạn có ý thức tốt hỗ trợ giáo viên trong việc quản lớp cũng như các hoạt động của lớp, sau đó lựa chọn các thành viên trong Ban học tập là những học sinh có ý thức học tập tốt phụ trách việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các bạn trong 15 phút đầu giờ học buổi sáng cũng như buổi chiều. 
+ Ở lớp: Trong các tiết học bài mới, giáo viên dành thời gian mở rộng kiến thức, đưa ra nhiều bài tập đồng dạng để rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức mới cho học sinh. 
Đối với các quy tắc thực hiện các phép tính với số thập phân, tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho học sinh nhắc lại nhiều lần và thuộc ngay trước khi chuyển sang phần luyện tập- thực hành. Ban học tập sẽ có trách nhiệm nhắc nhở và kiểm tra các quy tắc này trong thời gian tự học. 
Thường xuyên nhắc nhở các em tập trung chú ý nghe giảng và ghi chép đầy đủ các cách làm bài ngắn gọn mà thầy giáo hướng dẫn ra vở nháp. Có thắc mắc hay điều gì chưa hiểu cứ mạnh dạn hỏi để thầy giáo giảng lại (Có thể hỏi bạn trong giờ ra chơi). Chú ý nghe thầy giáo sửa bài và ghi lại bài sửa cụ thể, rõ ràng vào giấy nháp để tham khảo khi có bài tập đồng dạng. Khi các em hiểu bản chất bài toán, các em sẽ thấy thích thú vì có thể áp dụng bài toán đó trong thực tế cuộc sống. 
Trong thời gian học môn Toán ở buổi 2 tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm dành nhiều thời gian giúp đỡ những học sinh gặp khó khăn và giao thêm một số bài tập có yêu cầu cao hơn cho những em hoàn thành tốt bài trong vở bài tập. 
Tổ chức thi đua trong tổ, nhóm, cá nhân, giáo viên chủ nhiệm theo dõi sát sao mọi sự tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để có những lời động viên, khuyến khích kịp thời đó để các em cố gắng vươn lên rèn luyện và học tập. 
+ Ở nhà: Hướng dẫn học sinh đọc trước bài học mới trong sách giáo khoa để biết bài học mới sẽ học gì và cần những kiến thức cũ nào có liên quan. Học thuộc các quy tắc của bài cũ và các kiến thức cũ có liên quan. Rèn cho các em thói quen trước khi tự học ở nhà học thuộc kiến thức bài cũ, xem lại bài thầy giáo hướng dẫn và bài sửa ở nháp, đọc kĩ yêu cầu của bài tập rồi mới làm bài. Có thể tìm thêm các bài tập đồng dạng trong quyển Bài tập Toán 5 làm thêm để rèn kỹ năng tính toán cho bản thân. 
2.3. Giải pháp 3: Rèn kĩ năng tính cho học sinh
Rèn kỹ năng tính cho học sinh trong suốt quá trình học tập nhằm giúp học sinh tính nhanh, tính đúng các phép tính vận dụng vào giải toán có lời văn, tính giá trị biểu thức, giải toán hình, 
Khi tổ chức dạy học các bài phần lý thuyết tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung từng bài học, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Nội dung dạy học đảm bảo tính hệ thống theo mức độ tăng dần (từ dễ đến khó). Sau mỗi bài học, tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài, lựa chọn xem cần củng cố khắc sâu phần nào để tránh sai lầm không đáng có khi các em vận dụng thực hành. 
Thường xuyên kiểm tra nhận xét việc nắm kiến thức và rèn kỹ năng của học sinh để có sự điều chỉnh, giúp đỡ phù hợp. 
Thường xuyên quan tâm đến từng đối tượng học sinh, đồng thời phải động viên, khuyến khích học sinh kịp thời khi thấy học sinh có sự tiến bộ. Tạo điều kiện để học sinh được thực hành luyện tập thường xuyên. 
Buổi chiều, củng cố kiến thức kĩ năng cho học sinh tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm lựa chọn những dạng toán cơ bản, dạng toán học sinh thường mắc sai lầm để hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng. Khi lựa chọn nội dung ôn tập, giáo viên cần đưa ra những nội dung thật gần gũi đối với đời sống hằng ngày của các em để từ đó các em nhận thấy sự cần thiết phải trau dồi kiến thức của môn học, thấy được vai trò của môn học trong việc học tập các môn học khác và trong đời sống thực tiễn. 
Để giải được bất kì dạng toán nào đạt kết quả thì các em phải có kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản. Tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm dành nhiều thời gian cho việc rèn kĩ năng thực hiện bốn phép tính cơ bản (cộng, trừ, nhân, chia) từ thực tế giảng dạy tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm thấy học sinh thường mắc phải các sai lầm sau: 
 a) Với phép tính cộng, trừ
- Đặt phép cộng, trừ chưa thẳng cột. 
Ví dụ: 
Đặt tính đúng: 
+
+
 1,92	
274
Đặt tính sai: 
1,92
274
Đặt tính đúng: 
-
-
57,05	
 4,154
Đặt tính sai: 
57,05
4,154
Để khắc phục sai lầm này đòi hỏi giáo viên trong khi dạy phải hết sức tỉ mỉ, hướng dẫn cho học sinh cách đặt tính, đặt dấu bằng, phần nguyên thẳng phần nguyên, phần thập phân thẳng phần thập phân, dấu phẩy thẳng dấu phẩy, đến quy trình tính phải cẩn thận thì mới tập được cho các em kĩ năng tính toán thành thạo, chính xác. Những chi tiết dù rất nhỏ nhưng nếu giáo viên chú ý sửa sai thường xuyên, uốn nắn kịp thời thì dần dần trở thành thói quen, tạo ý thức tốt cho các em tính toán. 
Khi tính toán phải thực hiện phép tính từ phải sang trái, dấu phẩy hạ thẳng cột, nhắc nhở nhiều lần sẽ giúp học sinh hình thành khả năng tính toán. Giáo viên có thể luyện cho học sinh bằng nhiều cách: lúc đầu giáo viên đặt tính cho học sinh tính, sau đó giáo viên cho phép tính rồi học sinh tự đặt tính và tính, cuối cùng cho các em thử lại kết quả tính để tạo thói quen tự kiểm tra kết quả của mình cũng như củng cố sâu hơn mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ số thập phân. 
b) Với phép tính nhân
+ Sai do quên nhớ: Khi thực hiện nhân số thập phân học sinh thường mắc sai lầm nhất là quên nhớ khi nhân dẫn đến kết quả sai. 
Ví dụ: 
 Tính đúng:
 75, 3
 1, 6
 4518
 753
120,48
 Tính sai: 
 75, 3
 1, 6
 4508
 753
120,38
Để khắc phục điều này vào thời gian ôn tập buổi 2 tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm ra thêm các bài tập dạng nhân số thập phân có nhớ để học sinh làm thêm, sau đó gọi một số em thường xuyên quên nhớ lên bảng làm và để cả lớp cùng phát hiện nhắc nhở nhiều lần để bản thân học sinh cũng như cả lớp tránh được lỗi sai này, dần dần các em tự tạo cho mình thói quen nhớ khi tính toán có nhớ. 
+ Sai do xác định vị trí dấu phẩy sai: sai lầm này học sinh dễ mắc phải nhất do nhầm lẫn với cách đặt dấu phẩy ở phép cộng trừ hoặc do các em chưa nhớ kĩ quy tắc. Để khắc phục sai lầm này ngay từ bài đầu tiên của phép nhân sau khi hình thành cách nhân tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho học sinh ghi nhớ cách nhân ngay tại lớp và cho thêm một số ví dụ vận dụng nhấn mạnh cách đặt dấu phẩy để học sinh ghi nhớ cách đặt dấu phẩy. Học xong bài nhân số thập phân với số thập phân tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho học sinh so sánh hai dạng nhân và nhấn mạnh cách xác định dấu phẩy để học sinh thực hiện thành thạo. 
Ví dụ: 
x
Tính đúng: 
 4,12
 3,5
 2060 
 1236
14,420
x 
Tính sai: 
 4,12
 3,5
 2060 
 1236
 144,20
+ Sai lầm khi nhân viết tích riêng không đúng hàng: do khi thực hiện phép nhân với thừa số có chữ số 0 ở giữa các em quên không viết thêm chữ số 0 ở hàng chục. 
Ví dụ: 
 x
Tính đúng: 
 91,3
 4,05
 4565
 36520
369,765
 x
Tính sai: 
 91,3
 4,05
 4565
 3652
 41,085
 Để khắc phục những sai lầm trên tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho các em làm rất nhiều phép tính dạng trên. Mỗi lần thực hiện tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm đều cho các em nhắc lại quy tắc thực hiện phép nhân: thực hiện từ phải qua trái, nhân lần lượt từ hàng đơn vị, đến hàng chục, rồi đến hàng trăm. Các tích riêng phải đặt đúng hàng. Chú ý cách viết tiếp theo sau khi nhân với 0.
c. Đối với phép chia: 
- Đây là phép tính mà học sinh thường hay nhầm lẫn nhất khi làm bài. Các em thường phạm sai lầm trong việc bỏ bớt số 0. 
Ví dụ: 
Tính đúng: Tính sai:
3,005
5
3,005
5
3 0
0,601
3 0
0,61
0 0 05
0 05
0 0 0
0 0 0
- Khi chia số thập phân cho số tự nhiên các em có thể vấp phải một số sai lầm như: Chia sai thương ở phần nguyên, cụ thể ở đây là quên 1 chữ số 0 (trường hợp 1) hoặc không đánh dấu phẩy ở thương khi chuyển sang chia chữ số đầu tiên của phần thập phân (trường hợp 2).
Ví dụ: 631,08 : 9 
	- Tính đúng : 631,08 9
 010 70,12
 18
 0
	- Tính sai: 
	Trường hợp 1: 631,08 9 Trường hợp 2: 631,08 9 
 010 7,12 010 7012
 18 18
 0 0
- Khi chia số tự nhiên cho số thập phân các em cũng thực hiện khá tốt theo quy tắc, tuy nhiên một số học sinh sau khi gạch dấu phẩy ở số chia (số thập phân) lại quên không thêm số 0 vào bên phải số bị chia. 
Ví dụ: 702 : 7, 2
	- Tính đúng: 7020 7,2 - Tính sai: 702 7,2
 540 97,5 540 9,75 
 360 360
 00 00
Với các trường hợp này tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm yêu cầu học sinh đó nhắc lại quy tắc tính và tự thực hiện lại một lần theo quy tắc rồi đưa thêm ví dụ cho học sinh đó làm để khắc sâu hơn. 
Khi chia số thập phân cho số thập phân một số học sinh thường nhầm lẫn khi chuyển dấu phẩy ở số bị chia sang bên phải không đúng theo số chữ số ở phần thập phân của số chia. 
Ví dụ: 17,55 : 0,39
	- Tính đúng : 17,55 0,39
 195 45
 00
	- Tính sai : 
Trường hợp 1: 1,7,55 0,39 Trường hợp 2: 17,5,5 0,39
 175 0,045 175 0,45
 195 195 
 00 00 
Với tất cả các dạng bài trên để khắc sâu kiến thức tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần. Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy, cung cấp kiến thức, nếu liên quan đến kiến thức cũ hoặc quy tắc cũ tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm đề nghị giáo viên chủ nhiệm đều hỏi ngay học sinh nhanh nhẹn hơn để củng cố giúp cả lớp nhớ lại vận dụng và thực hiện được tốt hơn. Trong quá trình giảng bài và hình thành kiến thức cho học sinh tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm lựa chọn các câu hỏi phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp mình có thể gắn liền với thực tế làm sao cho tất cả các em đều hiểu được yêu cầu cơ bản của bài học. Trong từng tiết học, tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm quan tâm nhận xét bài làm của từng em để nắm bắt khả năng hiểu bài và phát hiện những sai lầm của các em uốn nắn sửa chữa kịp thời. 
Để khắc phục tất cả các sai sót trên tôi luôn đề nghị giáo viên chủ nhiệm yêu cầu tất cả học sinh phải nhớ cách tính từng dạng bài, đưa ra các ví dụ cụ thể từ đơn giản đến phức tạp cho học sinh làm nhiều lần trong giờ học củng cố kiến thức kỹ năng buổi chiều. 
3. Hiệu quả do sáng kiến kinh nghiệm đem lại 
Qua quá trình nghiên cứu áp dụng thực hiện sáng kiến “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc” cho đến thời gian báo cáo sáng kiến kinh nghiệm đã thu được một số kết quả như sau: 
Đa số học sinh đều yêu thích và say mê học toán, có nề nếp tự giác khi học toán ở lớp cũng như ở nhà. Tất cả học sinh đã có kĩ năng tính toán khá tốt, có khả năng vận dụng bốn phép tính cơ bản vào việc làm các bài toán như: Tìm thành phần chưa biết, tính giá trị của biểu thức, giải toán có lời văn, . . . . Các em đã có kĩ năng đánh giá bài làm của bạn. Có khả năng phát hiện và sửa chữa sai lầm mà bạn gặp phải, cũng như mỗi em đều có ý thức rèn luyện kĩ năng tính toán cẩn thận, ít phạm lỗi trong khi thực hiện các phép tính về số thập phân. Các em đã tích cực chuẩn bị bài ở nhà, luôn sẵn sàng tham gia các yêu cầu của giáo viên đưa ra trong tiết học toán. 
	4. Phương pháp thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
Để thực hiện sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau :
	a. Nghiên cứu tài liệu : 
	- Đọc và nghiên cứu các tài liệu, sách, báo, tạp chí giáo dục, tham khảo các bài viết trên mạng Internet .... có liên quan đến nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
	- Tham khảo sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo: Toán tuổi thơ, giúp em vui học toán...
	b. Nghiên cứu thực tế :
- Dự giờ thăm lớp, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung sử dụng “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng thực hiện các phép tính về số thập phân cho học sinh vùng dân tộc”
 - Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (soạn giáo án đã thông qua các tiết dạy ở trên lớp mình thể nghiệm) để kiểm tra tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm.
	5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến
	Có thể vận dụng sáng kiến này trong việc rèn kĩ năng thực hiện các phép tính với số thập phân cho học sinh khối 5 Trường Tiểu học Tri Lễ 1, Trường Tiểu học Tri Lễ 2 và vận dụng với các đơn vị trường bạn trong địa bàn huyện Quế Phong có cùng đối tượng học sinh. 
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Kết quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Kết quả khảo sát: 
Tổng số
học sinh
Kỹ năng tính toán, vận dụng tốt
Kỹ năng tính toán tốt
Kỹ năng tính toán còn hạn chế
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
19
8
42,1%
10
52,6%
1
5,3%
2. Những kết luận trong quá trình nghiên cứu, triển khai sáng kiến kinh nghiệm
	Để thực hiện dạy học có hiệu quả các phép tính về số thập phân cho học sinh người dân tộc thiểu số thì người giáo viên cần:
- Giáo dục cho học sinh lòng yêu thích, say mê học toán: tạo ra không khí tự nhiên, thoải mái cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề sau đó dẫn dắt học sinh tìm cách giải quyết.
- Xây dựng nề nếp học toán: Xây dựng cho học sinh những thói quen, cách học hợp lý, có trật tự, chú ý nghe giảng, hăng say phát biểu xây dựng bài, chia

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_thuc_hien_cac_phep_tinh.doc