SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ.

• Đối với từ đồng âm: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2).

Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”(1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cấy, trồng trọt; “đồng”(2) là kim loại, chúng là những từ đồng âm (vì nghĩa khác nhau).

• Đối với từ nhiều nghĩa: Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ “chân” mang nghĩa chuyển?

+ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

+ Bé đau chân.

Với bài tập trên, giáo viên yêu cầu học sinh nêu nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc: “chân” trong câu a) chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, “chân” trong câu b) một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể - nghĩa gốc.

 

doc 19 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 2690Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h độ chuyên môn được đào tạo bài bản, chính quy. Khi dạy về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, tôi thường trao đổi với Ban giám hiệu, bạn bè đồng nghiệp, để tìm ra cái hay, cái mới trong giảng dạy nên đã rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích cho bản thân.
Đa số học sinh có ý thức trong học tập, nắm được kiến thức bài học và vận dụng vào thực hành tương đối tốt.
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5, các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm; bài luyện tập về từ đồng âm đã được giảm tải, vì thế thời lượng còn ít.
Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Học sinh được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa, nêu các nét nghĩa khác nhau của một từ. Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa không có trong khi đó khả năng tư duy trừu tượng của các em còn hạn chế.
Hầu hết học sinh lớp 5 sau khi học xong các tiết Luyện từ và câu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đều gặp khó khăn. Sau khi học về từ đồng âm rất nhiều học sinh nêu được định nghĩa này, thậm chí là học thuộc lòng và đã biết vận dụng vào việc xác định từ đồng âm, mặc dù chưa được chính xác, vẫn có những học sinh còn lúng túng. Nhưng sau những tiết củng cố, luyện tập, học sinh dần dần nắm được và vận dụng được từ đồng âm. Đến khi xuất hiện từ nhiều nghĩa thì học sinh thực sự lúng túng, phân vân giữa việc xác định, phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Nhiều học sinh thậm chí chỉ biết đoán mò tìm kết quả.
Cụ thể là:
- Khó khăn trong việc giải thích nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng và còn lủng củng.
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, định tính.
- Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ.
- Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
b. Thành công, hạn chế
Áp dụng các biện pháp đưa ra trong đề tài, học sinh đã có thể phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; khi làm các bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ đồng nghĩa đã nhanh và ít sai hơn.
Tuy nhiên, do thời lượng một tiết học còn hạn chế nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học được nhiều. 
c. Mặt mạnh, mặt yếu
Các biện pháp góp phần giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc giảng dạy về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; học sinh chủ động nắm vững kiến thức và không còn nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ trái nghĩa.
Các biện pháp mới chỉ áp dụng trong phạm vi một lớp học, chưa được vận dụng rộng rãi đến các lớp khác trong cùng một khối lớp.
d. Nguyên nhân
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có nhiều đặc điểm và hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau, chỉ khác nhau về nghĩa.
Ví dụ 1: Từ đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn khác nhau: “bàn”(1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc, “bàn”(2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.
Ví dụ 2: Từ nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn phím”. Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì “bàn”(1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân dùng để đi kèm với ghế làm đồ nội thất mang nghĩa gốc; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc máy tính mang nghĩa chuyển.
Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kỹ năng phân biệt. Học sinh vẫn còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Trong học kì I, ở phân môn Luyện từ và câu lớp 5, học sinh thường sai rất nhiều khi phải xác định là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.
 Để kiểm tra khả năng phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, trong bài kiểm tra thường xuyên sau phần học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi đã ra đề kiểm tra học sinh lớp 5B năm học (2014 – 2015) như sau:
Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa?	
	- Em được điểm chín.
	- Được điểm kém, em ngượng chín cả người.
	- Cơm đã chín.
	Kết quả:
Sĩ số
Điểm 9,10
Điểm 7,8
Điểm 5,6
Điểm dưới5
15
3 = 20%
5 = 33,3%
4 = 26,7%
3 = 20%
Nhìn chung, học sinh nắm bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa chưa chắc chắn, chưa chính xác.
Khi học bài Từ đồng âm ở tuần 5, qua vài ví dụ, các em học sinh dễ dàng tiếp thu “Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa”. Một số em có thể đặt câu để phân biệt các từ đồng âm. Thế nhưng, với bài tập “Phân biệt nghĩa của những từ đồng âm trong các cụm từ sau: a) Cánh đồng - tượng đồng - một ngàn đồng. b) Hòn đá - đá bóng. c) Ba và má - ba tuổi” thì gần như học sinh không thể nào giải thích rõ ràng, chính xác được. Không một em học sinh tiểu học nào có thể giải thích được “Đồng trong cánh đồng là mảnh đất có cỏ mọc hay để trồng trọt”, “Đá trong hòn đá là chất rắn tạo nên vỏ quả đất”... Với một bài học tương đối khó như vậy, nếu không được luyện tập nhiều để nắm vững hơn về từ đồng âm, học sinh sẽ không hoàn thành được tốt bài tập.
Đến tuần 7, các em lại học bài Từ nhiều nghĩa. Đây lại là bài học khó nhất trong phân môn Luyện từ và câu ở học kì I. Để học sinh phân biệt thế nào là nghĩa “gốc”, thế nào là nghĩa “chuyển” thật là khó khăn, bởi khái niệm “Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau”. Với học sinh tiểu học, nó thật trừu tượng, mơ hồ. 
Chính vì vậy, khi sang đến tuần 8, với bài luyện tập 1, trang 82, sách Tiếng Việt 5 - tập 1: “Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa?
Chín: Lúa ngoài đồng đã chín vàng/ Tổ em có chín học sinh/ Nghĩ cho chín rồi hãy nói”. Nếu như học sinh chưa nắm vững bài học thì sẽ rất dễ xác định sai.
Đứng trước thực tế đó, tôi đã hướng dẫn học sinh khi học các khái niệm về từ nhiều nghĩa, từ đồng âm. Khi học sinh đã nắm được kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi mở rộng thêm cho HS một số kiến thức giúp học sinh hiểu bản chất kiến thức: Từ đồng âm là nhiều từ nhưng nghĩa các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển từ nghĩa gốc. Trở lại ví dụ ở trên, trong ví dụ 1 “bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” đều mang nghĩa gốc, ví dụ 2 “bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa chuyển. Vậy làm thế nào để học sinh phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ? Đến đây tôi giúp học sinh hiểu rằng từ mang nghĩa gốc thì nêu được nghĩa khác nhau nhưng phải bằng cách diễn giải. Còn phần nhiều các từ mang nghĩa chuyển thì nêu nghĩa bằng cách thay thế bằng một từ khác (mang nghĩa phụ).
 	Ví dụ:          Mùa xuân (1) là tết trồng cây
         	Làm cho đất nước càng ngày càng xuân (2).
Ta thấy rằng: “xuân”(2) được dùng theo nghĩa chuyển vì “xuân” có thể thay thế bằng “tươi đẹp”. Khi học sinh đã nắm bắt được bản chất của kiến thức, để cho học sinh có kỹ năng phân biệt, tôi tổng hợp thành những dạng bài tập hỗn hợp cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để HS luyện tập.
Sau khi mở rộng cho HS một số khái niệm cơ bản cần thiết về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn HS so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa chúng.
Tôi lần lượt sử dụng các giải pháp trên bằng cách lựa chọn và phân bố hợp lí theo từng nội dung của bài, lấy nhiều ví dụ minh họa để học sinh nắm được đặc điểm cơ bản của các loại từ trên từ đó có thể phân biệt và nhận dạng dễ dàng hơn trong khi làm bài tập.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Để khắc phục những khó khăn trong quá trình dạy – học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; giúp học sinh có khả năng phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa một cách dễ dàng và chính xác mang lại hiệu quả cao hơn trong quá trình dạy – học. Đề tài đưa ra một số biện pháp có thể được áp dụng khi dạy học phân môn Luyện từ và câu ở các tiết học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.1. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
* Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa:
+ Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa.
Ví dụ: - bò trong kiến bò, chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng cử chỉ của toàn thân hoặc những cái chân ngắn.
 - bò trong trâu bò: chỉ loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông thường có màu vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa
+ Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. 
Ví dụ: - Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người ở trên mặt).
 	 - Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có ba dạng sau:
- Dạng 1: Dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.
Ví dụ: Miệng1 (miệng xinh) và miệng2 (miệng bát)
- Dạng 2: Dựa trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng của các sự vật, đối tượng.
Ví dụ: cắt1 (cắt cỏ) với cắt2 (cắt quan hệ)
- Dạng 3: Dựa trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với con người.
Ví dụ: đau1 (đau vết mổ) và đau2 (đau lòng)
Theo cơ chế hoán dụ có các dạng sau:
- Dạng 1: Dựa trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
Ví dụ: Chân1, Tay1, Mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể (Anh ấy có chân2 trong đội bóng. Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có Mặt2 trong hội nghị)
- Dạng 2: Dựa trên quan hệ giữa vật chứa và cái được chứa. 
Ví dụ: Nhà1 là công trình xây dựng (Anh trai tôi đang làm nhà)
 Nhà2 là gia đình (Cả nhà có mặt)
 - Dạng 3: Dựa trên quan hệ nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó. 
Ví dụ: 
Muối1: Nguyên liệu (Một kg muối)
Muối2: hành động làm cho thức ăn lên men (Chị ấy muối dưa rất ngon)
* Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Ở phần nhận xét, giáo viên giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng hợp kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là học sinh khá, giỏi, giáo viên có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế
 Khi dạy các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh họa nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ. 
Ví dụ:
 Hòn đá	Đá bóng
Trong quá trình dạy học có thể vận dụng phương pháp, hình thức dạy học như: Phương pháp hỏi đáp, phương pháp giảng giải, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp trực quan, phương pháp tổ chức trò chơi, phương pháp luyện tập thực hành.
Đối với các tiết luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa. Cụ thể:
 Yêu cầu học sinh hiểu và nắm vững kiến thức để vận dụng
Giáo viên có thể cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, thi đua xem ai nhanh, ai đọc tốt giúp học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp.
 Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau (nói đọc giống nhau và viết giống nhau). Vì vậy, để kết luận được các từ đó có quan hệ đồng âm hay quan hệ nhiều nghĩa trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ.
Ví dụ: 
Đường(1): (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt.
Đường(2): (đường dây điện thoại): chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc.
Đường(3): (ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp): chỉ lối đi cho các phương tiện, người, động vật.
Để có thể giải thích nghĩa chính xác của các từ “đường” như trên, học sinh phải có vốn từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy, giáo viên luôn phải chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh.
Tiếp đó, học sinh căn cứ vào khái niệm từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ. Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy:
Từ đường(1) và từ đường(2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau - kết luận hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ đường(2) và từ đường(3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ đường(2) và từ đường(3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường(3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ đường(2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). Như vậy từ đường(3) là nghĩa gốc, còn từ đường(2) là nghĩa chuyển – kết luận từ đường (2) và từ đường(3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau.
b.2.Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức
Trong chương trình sách giáo khoa, dạy bài về từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài dạy về từ đồng âm. Như vậy để phòng sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa thì ngay ở bài dạy về từ đồng âm ngoài ví dụ đúng cần có thêm các trường hợp không phải đồng âm để các em nhận xét.
Ví dụ: Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm không?
- Em hay đi bộ đến trường.
- Anh đi ô tô, còn tôi đi xe đạp.
- Bà cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi.
- Anh đi con mã, tôi đi con tốt.
- Thằng bé đã đến tuổi đi học.
- Ca nô đi nhanh hơn thuyền.
- Ghế thấp quá không đi được với bàn.
Bài tập này giáo viên chỉ yêu cầu học sinh nhận diện từ “đi” trong các câu văn trên là hiện tượng đồng âm hay không, không yêu cầu giải thích.
 Trong bài dạy “từ nhiều nghĩa” giáo viên có thể lấy thêm một số trường hợp về từ nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ về từ đồng âm cho học sinh nhận định về các từ trong ví dụ.
Ví dụ: Từ “bạc” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa? Vì sao?
Nhẫn bạc – tóc bạc – bạc như vôi. Ở câu hỏi này, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lý do lựa chọn để khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại từ “bạc” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ “bạc” trong mỗi trường hợp khác nhau, không có quan hệ với nhau.
Cuối tiết học giáo viên nhấn mạnh học sinh lưu ý phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này.
b.3. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cùng với các bài luyện tập, có thể giúp học sinh rút ra so sánh như sau:
* Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:
Từ đồng âm
Từ nhiều nghĩa
- Là hai hoặc nhiều từ có cùng hình thức ngữ âm: (hòn) đá và đá (bóng).
- Các nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau không có bất cứ mối liên hệ nào.
Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắn có sẵn trong tự nhiên, thường thành tảng, hòn rất cứng. Còn đá (bóng) chỉ hành động dùng chân hất mạnh vào một vật nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương.
- Không giải thích được bằng cơ chế chuyển nghĩa.
- Là một từ nhưng có nhiều nghĩa: (hòn) đá và (nước) đá.
- Các nghĩa có mối liên hệ với nhau.
Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắn có trong tự nhiên, thường thành tảng, khối vật cứng. Còn (nước) đá chỉ nước đông cứng lại thành tảng giống như đá.
- Do cơ chế chuyển nghĩa tạo thành.
* Điểm giống nhau:
- Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau
- Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thường dễ nhầm lẫn
Ví dụ: Ba: ba(1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo
 ba (2) số từ: Số ba là con số không may mắn
Học sinh có thể nhầm lẫn từ “ba” là từ nhiều nghĩa vì có hình thức âm thanh giống nhau. Khi gặp trường hợp này phải giúp học sinh thấy được các nét nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa mà là từ đồng âm.
b.4. Tổng hợp các dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
* Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ.
Đối với từ đồng âm: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2).
Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”(1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cấy, trồng trọt; “đồng”(2) là kim loại, chúng là những từ đồng âm (vì nghĩa khác nhau).
Đối với từ nhiều nghĩa: Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ “chân” mang nghĩa chuyển?
+ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
+ Bé đau chân.
Với bài tập trên, giáo viên yêu cầu học sinh nêu nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc: “chân” trong câu a) chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, “chân” trong câu b) một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể - nghĩa gốc.
* Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Đối với từ đồng âm: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước.
Bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ cần đặt ít nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
Ví dụ: Bàn: - Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
 - Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.
Đối với từ nhiều nghĩa: Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng”
+ Nghĩa 1: ở thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
+ Nghĩa 2: ngừng chuyển động.
Giáo viên có thể gợi ý: nghĩa 1 nói tới một tư thế của người hoặc động vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào đó học sinh đặt câu.
+ Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ.
+ Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.
* Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa.
Ví dụ: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?
Vàng: - Giá vàng nước ta tăng đột biến.
 - Tấm lòng vàng.
 - Ông tôi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.
Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng” rồi xác định mối quan hệ giữa chúng: từ “vàng” ở câu 1, 2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ “vàng” ở câu 3 có quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2.
* Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho.
Đối với từ đồng âm:
Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B
A
B
1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ.
2. Sao lá đơn này thành ba bản.
3. Sao tẩm chè.
4. Sao ngồi lâu thế?
5. Cánh đồng lúa mới đẹp làm sao!
a. Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác theo đúng bản chính.
b. Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô.
c. Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên nhân. 
d. Nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên, thán phục.
e. Các thiên thể trong vũ trụ.
Đối với từ nhiều nghĩa:
Ví dụ: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A
A
B
1. Bé chạy lon ton trên sân.
2. Tàu chạy băng băng trên đường ray.
3. Đồng hồ chạy đúng giờ.
4. Dân làng khẩn trương chạy lũ.
a. Hoạt động của máy móc.
b. Khẩn trương tránh những điều không may sắp xảy đến.
c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện giao thông.
d. Sự di chuyển nhanh bằng chân.
Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng.
Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui:
Trùng trục như con chó thui.
Chín mặt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu.
(Là con gì?)
Hoặc dạng bài tập chỉ ra những từ đồng âm được dùng để chơi chữ trong các câu sau:
+ Kiến bò đĩa thịt bò./ Ruồi đậu mâm xôi đậu.
+ Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa.
Đối với từ nhiều nghĩa có dạng bài tập thay thế từ :
Tìm từ có thể thay thế từ “mũi” trong các cụm từ sau:
- Mũi thuyền/ Mũi súng/ Mũi đất/ Mũi quân bên trái đang thừa thắng xốc tới/ Tiêm ba mũi.
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện

Tài liệu đính kèm:

  • doclan-tay phong.doc