Vẽ sơ đồ (bản đồ) tư duy: Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả giờ học, tôi muốn từ đề tài này có thể rút ra phương pháp phù hợp tạo hứng thú cho các em khi học môn học này, đồng thời thay đổi tư duy, cách nhìn nhận của các em về môn học, tạo cho các em niềm đam mê và yêu thích môn học. Ngoài ra còn giúp các em huy động tối đa tiềm năng của bộ não, các em sẽ học tập tích cực hơn, nhớ lâu hơn, đem lại hiệu quả giờ học tốt hơn, các em có điều kiện phát triển óc thẩm mĩ khi thiết kế bố cục, màu sắc, đường nét, sắp xếp ý tưởng khoa học. Vì vậy tôi sử dụng phương pháp vẽ sơ đồ (bản đồ tư duy) trong học Lịch sử.
Giáo viên kết hợp với việc sử dụng phần mềm Iminmap để vẽ sơ đồ tư duy trong việc thiết kế bài giảng trên máy tính; còn học sinh, các em sẽ sử dụng giấy, bút chì, màu vẽ, tẩy. để thực hiện. Phương pháp này còn tạo nên một không khí mới cho giờ học - sinh động, sáng tạo, tạo không khí thoải mái, hiệu quả giờ học cao, học sinh nhớ kiến thức của bài theo sự sáng tạo của mình. Đồng thời giúp cho học sinh có một phương pháp học mới, nhớ lâu, nhớ có hệ thống.
thuộc lòng những kiến thức khô khan, khó nhớ... cũng là nguyên nhân khiến nhiều em không thích học môn này. Khi khảo sát, thì số lượng học sinh yêu thích học lịch sử ngày càng ít đi, phân môn Lịch sử hiện nay đang bị nhìn nhận một cách chưa đúng mực, tâm lí phụ huynh khi nhắc nhở con em mình học cũng có xu hướng coi nhẹ môn học này, đây cũng là một yếu tố khiến kết quả học tập môn học này của các em chưa cao, vì coi đây là môn phụ nên phụ huynh chủ yếu nhắc nhở con em mình học các môn như Toán và Tiếng Việt. Đối tượng học sinh ở trường là học sinh nông thôn . Chính vì vậy, việc tiếp thu kiến thức, tham gia vào các hoạt động trong học tập trên lớp cũng như phối hợp với giáo viên trong việc sưu tầm tranh, ảnh; mẩu chuyện lịch sử rồi đến việc cho các em đi tham quan thực tế.. để giờ dạy trở nên hấp dẫn hơn còn hạn chế. Đa số các học sinh vẫn còn thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì vậy sẽ rất mau quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các sự kiện lịch sử. Bên cạnh đó một số học sinh không thích đọc truyện về lịch sử, hoặc xem các tư liệu về lịch sử vì nó quá khô khan, mà chỉ thích xem phim tình cảm, phim kiếm hiệp Với một số học sinh khả năng tập trung kém, chậm trong tư duy sẽ bị mất tập trung, sa đà vào các trò chơi trong học tập, không theo kịp các bạn. Đặc biệt, khi sử dụng phương pháp này trong dạy trình chiếu thì nhiều em sẽ bị thu hút vào những hình ảnh đầy màu sắc hơn là tập trung vào nội dung kiến thức. * Giáo viên: Giáo viên cũng là nhân tố không kém phần quan trọng làm cho giờ học lịch sử trở nên kém sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn các em. Trong quá trình dạy học, do khối lượng kiến thức nhiều nên giáo viên thường cố "nhồi nhét" lượng kiến thức khô khan "khổng lồ" khiến các em cảm thấy khó nhớ dẫn đến tâm lý cảm thấy chán, không hứng thú khi học lịch sử. Trong các bài dạy, giáo viên cũng ít sử dụng hoặc sử dụng không đầy đủ các đồ dùng dạy học như: một số phương tiện nghe nhìn, bản đồ, tranh ảnh,... và cũng có những lúc giáo viên rơi vào tình trạng dạy suông, dạy chay, truyền đạt kiến thức giống y như trong sách giáo khoa do vậy khi học sinh học những bài này thì thấy khá buồn tẻ, khả năng tiếp thu và ghi nhớ của các em sẽ giảm đi, các em không còn cảm thấy hứng thú khi học. Do lượng kiến thức các môn học trong chương trình lớp 4 khá nặng nên giáo viên thường cắt xén thời gian học của phân môn Lịch sử và một số môn học khác để dành thời gian tập trung cho các môn như Toán, Tiếng Việt. Là một giáo viên chủ nhiệm ở bậc Tiểu học thì mỗi buổi giáo viên thường phải lên lớp từ 4 đến 5 môn. Vì vậy, việc đầu tư cho mỗi giáo án còn hạn chế như: việc sưu tầm tranh, ảnh; chắt lọc những kiến thức trọng tâm của bài dạy; sưu tầm những mẩu chuyện lịch sử liên quan đến bài học; sử dụng công nghệ thông tin để thiết kế trò chơi học tập... mất khá nhiều thời gian của giáo viên. * Chương trình và sách giáo khoa: Chương trình lớp Bốn khá nặng về kiến thức với nhiều môn học, vì vậy nên thời lượng để các em học phân môn lịch sử khá eo hẹp (1 tiết / tuần, mỗi tiết khoảng 35 phút) Trước lượng kiến thức khá nhiều trong sách giáo khoa, cách viết còn khô khan, kém hấp dẫn người đọc, mặc dù chương trình đã giảm tải song vẫn còn một số bài quá dài, dàn trải dẫn đến tình trạng "quá tải" về kiến thức (lượng kiến thức yêu cầu quá cao, nội dung quá nhiều) đối với cả người dạy và người học trong khi thời gian để dành cho phân môn này lại chỉ có 1 tiết/ tuần. Do vậy, rất nặng cho giáo viên và học sinh. * Nhà trường: Trang thiết bị, đồ dùng dạy học đã được nhà trường quan tâm, đầu tư tuy nhiên vẫn còn khá khiêm tốn, chưa thể đáp ứng được nhu cầu dạy và học. Ở nhiều nước, phương pháp giáo dục lịch sử cho học sinh thông qua những chuyến đi tham quan bảo tàng, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và qua việc trình chiếu các bộ phim lịch sử hấp dẫn... như vậy các em còn được tiếp cận với lịch sử thông qua trải nghiệm mà theo tôi đây là cách truyền đạt những kiến thức lịch sử dễ dàng nhất, giúp các em nhớ lâu nhất. Thực tế ở nước ta, vì điều kiện kinh tế còn hạn chế nên có chăng cũng chỉ được một số trường ở thành phố hoặc một số ít trường có điều kiện mới tổ chức cho học sinh đi tham quan được. * Xã hội: Một nguyên nhân nữa tác động đến quá trình dạy học đó là nhu cầu của xã hội ngày càng cao, đất nước đang trong quá trình hội nhập, sự phát triển của một số ngành công nghiệp dẫn tới tâm lí chung của xã hội là tập trung nhiều hơn vào các ngành công nghiệp, mà để làm tốt điều này các em sẽ được hướng vào các môn học tự nhiên hơn là các môn học xã hội. Trong những năm trở lại đây, theo kết quả công bố điểm thi tuyển sinh đại học của một số trường năm nay thì điểm thi môn Lịch sử được xem là thấp không ngờ, ngay cả khi so sánh điểm thi môn Lịch sử với những bộ môn khác của khối C như Địa Lí, Ngữ Văn. Theo tôi, đây không phải là điều gì mới mẻ bởi tình trạng này đã diễn ra từ nhiều năm nay. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về việc làm sao để giúp học sinh yêu thích học lịch sử, mỗi đề tài có một cách nhìn nhận vấn đề và đưa ra những giải pháp khác nhau nhằm mang lại hiệu quả. Bản thân tôi, xuất phát từ tình hình thực tế, từ đối tượng học sinh, từ kinh nghiệm trong giảng dạy của bản thân và từ hiệu quả khi những kinh nghiệm đó được áp dụng, tôi mạnh dạn trao đổi một số giải pháp của bản thân để giúp học sinh yêu thích học lịch sử như sau: * Thứ nhất, sự thay đổi đầu tiên cần xuất phát từ chính chúng ta - những giáo viên trực tiếp giảng dạy - giáo viên phải là người yêu lịch sử thì mới truyền cho học sinh tinh thần ấy được. Đôi lúc, chính những giáo viên cũng tự cho đây là "môn phụ" mà ít chú tâm vào nghiên cứu bài dạy, dạy một cách sơ sài, sử dụng đồ dùng dạy học chưa phong phú, chưa phù hợp; cách truyền đạt kém hấp dẫn. Qua thực tế, những tiết giáo viên có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo về đồ dùng, phương pháp dạy linh hoạt, hình thức tổ chức phong phú, lời giảng đúng đặc trưng bộ môn thì thấy các em rất hào hứng khi học, nắm kiến thức tốt hơn và nhớ lâu hơn. * Thứ hai, về phía học sinh, cũng nên hướng cho các em cách nhìn nhận về tầm quan trọng của việc học lịch sử, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà lịch sử nước nhà cần được gìn giữ, coi trọng. Phải giúp các em hiểu học lịch sử để làm gì? Học Sử là để biết tổ tiên, ông bà mình là ai; mình thuộc dân tộc nào; lãnh thổ của đất nước từ đâu đến đâu; con người phải làm gì để có được như ngày hôm nay...; hiểu về những gì cha ông đã làm, hiểu về đất nước, về con người và hiểu về những giá trị mà con người hiện nay đang được hưởng. * Thứ ba, việc lựa chọn kiến thức trọng tâm: Tâm lý "sợ" học lịch sử cũng một phần xuất phát từ lượng kiến thức quá nhiều trong sách giáo khoa, các em cảm thấy không thể học thuộc, không thể nhớ hết được lượng kiến thức ấy. Vì vậy, thay vì những tiết lịch sử chỉ cô nói, trò nghe, tiếp thu, ghi nhớ và học thuộc lòng - một tiết học nhàm chán, khó tiếp thu, khó nhớ các sự kiện... (tình trạng của việc không yêu thích học lịch sử), tôi xác định mục tiêu của bài và trong mục tiêu đó thì đâu là kiến thức trọng tâm của bài, cần nhấn mạnh vào yếu tố lịch sử nào, sau đó tìm phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp để học sinh tiếp thu kiến thức đó một cách tự nhiên nhất. Ví dụ: Trong bài Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo mục tiêu của bài là: Học sinh hiểu: Vì sao có trận Bạch Đằng, kể lại được diễn biến chính của trận Bạch Đằng, trình bày được ý nghĩa của trận Bạch Đằng với lịch sử dân tộc. Nội dung bài trong sách giáo khoa cũng khá dàn trải. Một điều chắc chắn rằng các em học sinh lớp 4 - năm mới bắt đầu làm quen với lịch sử - trong đó có cả đối tượng học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, các em không thể ghi nhớ hết được nội dung kiến thức trong bài đó. Vì vậy, ngoài việc truyền thụ các kiến thức trong bài dạy, tôi sẽ nhấn mạnh cho học sinh những kiến thức trọng tâm của bài. Học sinh chỉ cần nhớ: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938, kết thúc hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và mở đầu cho thời kì độc lập của nước ta. Như vậy, sẽ có một số câu hỏi để nhấn mạnh nội dung cơ bản này như: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm nào? Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông gì? Quân nào đã bị Ngô Quyền đánh tan trên sông Bạch Đằng vào năm 938? Ý nghĩa của chiến thắng này là gì?... Hay trong bài: Nhà Hậu Lê và việc tổ chức quản lí đất nước cũng vậy, giáo viên cung cấp cho học sinh các kiến thức liên quan đến nội dung bài học bằng nhiều hình thức tổ chức song ở mỗi hoạt động và phần củng cố bài giáo viên nhấn mạnh một số ý cơ bản như: Dưới thời Hậu Lê, đất nước được tổ chức quản lý rất chặt chẽ, Lê Thánh Tông cho vẽ bản đồ (đây là bản đồ đầu tiên của nước ta) và soạn Bộ luật Hồng Đức bảo về chủ quyền dân tộc và trật tự xã hội. Bằng một số câu hỏi như: Dưới thời Hậu Lê đất nước được tổ chức, quản lí như thế nào? Bộ luật đầu tiên của nước ta có tên là gì? nhằm mục đích gì? vua nào cho vẽ bản đồ đầu tiên của nước ta?... những câu hỏi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ kiến thức trọng tâm của bài. Ngoài ra, các nội dung câu hỏi trên có thể được giáo viên thiết kế dưới dạng trò chơi học tập để tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, giúp học sinh hứng thú với việc học lịch sử. * Thứ tư, về lựa chọn đồ dùng dạy học hợp lí: Như chúng ta đã biết, khi dạy phân môn Lịch sử thì việc sử dụng tranh, ảnh, bản đồ, que chỉ bản đồ, các đồ dùng trực quan phục vụ cho các hoạt động dạy và học là rất cần thiết. Việc sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp mang lại hiệu quả tích cực cho giờ học. Ví dụ: tranh, ảnh, bản đồ giúp học sinh nắm nội dung bài một cách chắc chắn hơn như: dễ hình dung ra một trận đánh, vị trí đánh của các trận chiến; các nhân vật quan trọng trong lịch sử... hay sử dụng que chỉ bản đồ không những giúp cho học sinh nắm một cách chính xác hơn vị trí mà giáo viên muốn chỉ, muốn truyền đạt mà còn đem lại sự thẩm mĩ trong cách nhìn về một tiết dạy thay vì dùng thước chỉ bản đồ. Song không phải lúc nào cũng sử dụng những đồ dùng ấy mà tùy vào nội dung bài giáo viên lựa chọn đồ dùng cho phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho giờ học. * Thứ năm, nên dạy Lịch sử kết hợp với Địa lí (liên môn): Tuy là hai phân môn riêng biệt song Lịch sử và Địa lí có mối liên hệ mật thiết với nhau. Lịch sử là những gì đã xảy ra, tồn tại một cách khách quan. Những điều đã xảy ra đó đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể. Vì vậy, chúng có liên quan mật thiết với những sự vật và hiện tượng Địa lí nhất định. Cho nên trong khi dạy và học Lịch sử có nhiều cơ hội để liên hệ với các kiến thức Địa lí và ngược lại. Khi điều kiện chưa cho phép tích hợp hoàn toàn, việc dạy học hai phân môn này phải được thực hiện theo tinh thần liên môn. Vai trò đó chỉ có thể thực hiện được bới chính giáo viên, những người trực tiếp đứng lớp. Và nếu như việc liên môn này được thực hiện phù hợp thì không những giúp học sinh nắm kiến thức về Lịch sử và Địa lí một cách chắc chắn hơn mà còn không gây ra sự nhàm chán trong tiết học. Ví dụ: Khi dạy Lịch sử bài: Nước Âu Lạc, giáo viên cho học sinh chỉ trên lược đồ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (hình 1, bài 1) vùng Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Hay khi học Địa lí bài: Đồng bằng Bắc Bộ, giáo viên có thể liên hệ với kiến thức của bài lịch sử: Nhà Lí dời đô ra Thăng Long, và ngược lại. Hoặc có thể dạy về cả kiến thức về lịch sử và địa lí địa phương cùng một lúc... * Thứ sáu, trong dạy học phải lồng ghép lịch sử địa phương: Cụ thể ở tuần 33 bài lịch sử địa phương giáo viên cho học sinh tìm hiểu sơ lược lịch sử hình thành tỉnh ĐăkLăk. Giáo dục học sinh ý thức giữ gìn, bảo vệ được giá trị truyền thống của địa phương. * Thứ bảy, việc lựa chọn hình thức tổ chức dạy học: Có rất nhiều hình thức tổ chức dạy và học nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Tùy vào điều kiện thực tế của nhà trường và đối tượng học sinh, chúng ta sẽ lựa chọn hình thức dạy học phù hợp. Để học sinh nắm kiến thức một cách tự nhiên, hào hứng, phấn khởi khi học, tôi đã lựa chọn một số hình thức tổ chức trong quá trình giảng dạy của mình như: - Thảo luận nhóm: hình thức này được sử dụng ở khá nhiều tiết, nhiều môn học. Đây là hình thức phổ biến. Các em có thể thảo luận nhóm 2, nhóm 4, nhóm 6... các câu hỏi liên quan đến bài học. Trong quá trình thảo luận nhóm các em có thể trao đổi, thảo luận, hỗ trợ cho nhau để hoàn thành nội dung yêu cầu của phiếu. Ví dụ: trong bài Chiến thắng Chi Lăng, ở hoạt động 1, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận nhóm đôi câu hỏi: Tại sao quân ta chọn ải Chi Lăng làm trận địa đánh địch? và để giúp học sinh thuật lại được diễn biến của trận Chi lăng ở hoạt động 3, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận nhóm 4 hoặc 6 với hệ thống các câu hỏi gợi ý như: Khi quân Minh đến trước ải Chi Lăng, kị binh ta đã hành động như thế nào? Kị binh của nhà Minh đã phản ứng như thế nào trước hành động của quân ta? Kị binh của nhà Minh đã thua trận ra sao? Bộ binh của nhà Minh bị thua trận như thế nào? - Trò chơi học tập và trò chơi học tập kết hợp với công nghệ thông tin: Như chúng ta đã biết, công nghệ thông tin là một công cụ hỗ trợ rất đắc lực cho việc dạy và học. Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là nhu cầu cần thiết. Đặc biệt đối với dạy phân môn Lịch sử, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lại càng cần thiết hơn vì nó giúp giáo viên có thể cung cấp cho học sinh nhiều nguồn tư liệu khác nhau, hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong việc thiết kế bài giảng. Nhờ có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin mà tiết dạy trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Chúng ta có thể sử dụng công nghệ thông tin để chèn hình ảnh, âm thanh, đưa ra các tranh, ảnh, bản đồ...; trong thiết kế các trò chơi như tạo hiệu ứng để chạy các câu hỏi, tạo âm thanh (bài hát, nhạc chuông...) để tiết học không trở nên quá khô khan, học sinh được lôi cuốn vào bài học một cách tự nhiên. Sử dụng công nghệ thông tin trong các tiết học Tôi sử dụng khá nhiều trò chơi trong những tiết dạy Lịch sử. Một số trò chơi như: rung chuông vàng, hỏi nhanh đáp gọn, ô cửa bí mật, đố vui, chiếc nón kì diệu, ai nhanh ai đúng (HS chọn đáp án bằng các giơ đáp án a, b, c hoặc giơ thẻ đúng/ sai)... Ví dụ: Trong bài: Kinh thành Huế, ở phần củng cố, giáo viên có thể cho HS chơi trò chơi: "Ô cửa bí mật" để giúp các em hệ thống lại kiến thức trọng tâm của bài như: Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời nhà nào? Kinh thành Huế là công trình như thế nào? Ngày 11-12-1993 có dấu ấn gì đặc biệt đối với cố đô Huế? Kết hợp với công nghệ thông tin, giáo viên đưa ra hình ảnh của ô cửa và một số câu hỏi trong ô cửa được đánh số thứ tự 1, 2, 3. Dựa vào 3 câu hỏi đó giáo viên giúp học sinh củng cố bài. Sau mỗi lần trả lời sẽ có biểu tượng Đúng (Chúc mừng bạn) hoặc Sai (Ồ! Tiếc quá)... Chúc mừng bạn ! Ồ ! Tiếc quá. Hay ở bài: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Năm 40), tôi cung cấp cho các em các kiến thức cần đạt được trong bài và nhấn mạnh vào những kiến thức trọng tâm của bài học. Sau đó, để giúp các em hệ thống lại kiến thức đã học đồng thời kiểm tra nhanh xem các em nắm bài đến đâu, có bao nhiêu em nắm tốt bài, bao nhiêu em còn lúng túng, mơ hồ... tôi cho học sinh chơi trò chơi "Rung chuông vàng" trong phần củng cố: Giáo viên (hoặc học sinh đọc tốt) đọc câu hỏi về nội dung kiến thức liên quan đến bài học hoặc kiến thức đã học, các em sẽ ghi đáp án của mình vào bảng con, sau khi hết thời gian quy định cả lớp sẽ giơ bảng con, đáp án nào sai sẽ hạ bảng xuống, còn ngược lại, đáp án đúng sẽ tiếp tục chơi cho đến khi tìm được người thắng cuộc (linh động thời gian của tiết học, giáo viên sẽ tìm được một em dành chiến thắng hoặc một số em dành chiến thắng và có thể hẹn thi lần sau nếu có thời gian). Ví dụ: về một số câu hỏi để chơi trò chơi như: Đầu thế kỉ thứ I, nước ta bị nhà nào đô hộ? Ai đã giết hại Thi Sách? Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra trong bao lâu? Tô Định đã làm gì sau khi thua trận? Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có ý nghĩa gì?... Đối với học sinh tiểu học, câu đố giúp các em thấy thoải mái, nhẹ nhàng trong tiết học. Không những vậy, để giải quyết được câu đố, học sinh phải vận dụng các kiến thức, kĩ năng từ các bài đã học đồng thời phải tư duy một cách logic để giải đố nó. Chính vì thế sử dụng câu đố trong dạy học Lịch sử cũng góp phần nâng cao và rèn luyện các kĩ năng cần hình thành cho học sinh ở lứa tuổi tiểu học. Câu đố có thơ giản dị, có vần vè, nhẹ nhàng, dễ nhớ, dễ thuộc nên có sức lôi cuốn các em trong việc học Lịch sử. Việc thay đổi hình thức tổ chức học tập căng thẳng bằng trò chơi “ đố vui” giúp các em “ học mà chơi, chơi mà học”. Vì thế, các em được thoải mái suy nghĩ, tự do bàn bạc mà không bị nhàm chán. Ví dụ: Vua gì từ tuổi ấu thơ Cờ lau tập trận, đợi giờ khởi binh? (Là vua nào?) Ai người bơi giỏi lặn tài Khoan ngầm thuyền giặc đánh bài đặc công Đáng đời lũ giặc Nguyên Mông Xuồng chầu hà đáy sông nộp mình? (Là ai?) Vua nào xuống chiếu dời đô Về Thăng Long vững cơ đồ nước Nam? (Là vua nào?) Ai người bóp nát quả cam Hờn vua đã chẳng lo bàn việc quân Phá cường địch, báo hoàng ân Dựng lên cờ nghĩa xả thân diệt thù? (Là ai?) Ai người anh hùng tuyệt vời Trong nanh vuốt giặc một lời thép gang "Tao thà làm quỷ nước Nam Làm vương đất bắc chẳng ham chút nào" (Là ai?) - Vẽ sơ đồ (bản đồ) tư duy: Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả giờ học, tôi muốn từ đề tài này có thể rút ra phương pháp phù hợp tạo hứng thú cho các em khi học môn học này, đồng thời thay đổi tư duy, cách nhìn nhận của các em về môn học, tạo cho các em niềm đam mê và yêu thích môn học. Ngoài ra còn giúp các em huy động tối đa tiềm năng của bộ não, các em sẽ học tập tích cực hơn, nhớ lâu hơn, đem lại hiệu quả giờ học tốt hơn, các em có điều kiện phát triển óc thẩm mĩ khi thiết kế bố cục, màu sắc, đường nét, sắp xếp ý tưởng khoa học... Vì vậy tôi sử dụng phương pháp vẽ sơ đồ (bản đồ tư duy) trong học Lịch sử. Giáo viên kết hợp với việc sử dụng phần mềm Iminmap để vẽ sơ đồ tư duy trong việc thiết kế bài giảng trên máy tính; còn học sinh, các em sẽ sử dụng giấy, bút chì, màu vẽ, tẩy... để thực hiện. Phương pháp này còn tạo nên một không khí mới cho giờ học - sinh động, sáng tạo, tạo không khí thoải mái, hiệu quả giờ học cao, học sinh nhớ kiến thức của bài theo sự sáng tạo của mình. Đồng thời giúp cho học sinh có một phương pháp học mới, nhớ lâu, nhớ có hệ thống. Ví dụ về một số Sơ đồ tư duy được sử dụng trong một số tiết dạy Lịch sử do giáo viên thiết kế kết hợp với sử dụng phần mềm Imimmap 6.0. Bài: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Năm 40) Bài: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (Năm 938) Một số bài vẽ của học sinh trong tiết học phân môn Lịch sử - Kể chuyện: Kinh nghiệm giảng dạy cho thấy, với cùng một nội dung kiến thức, nếu chúng ta truyền đạt theo trình tự kiến thức trong sách giáo khoa hoặc giảng giải suông thì học sinh rất khó nhớ nhưng khi kiến thức đó trở thành một câu chuyện thì lại khác, vì khả năng nhớ chuyện của học sinh khá tốt. Song, không phải nội dung, kiến thức nào, bài nào cũng có thể trở thành một câu chuyện. Để tiết học trở lên hấp dẫn, giáo viên có thể sưu tầm các mẩu chuyện về lịch sử ở các sách, truyện, đài, báo, mạng internet... Tuy nhiên, những câu chuyện lịch sử về thời kì dựng nước trong phân môn Lịch sử lớp 4 cũng không nhiều. Chính vì vậy, để tiết dạy thêm sinh động, lôi cuốn học sinh vào bài học thì giáo viên phải đầu tư thời gian cho bài dạy. Khi kể chuyện, giáo viên dùng lời nói, cử chỉ, điệu bộ kết hợp với tranh minh họa (nếu có) kể về một nhân vật, một trận đánh hay một sự kiện lịch sử. Ví dụ: Trong bài: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Năm 40), giáo viên có thể kể chuyện "Hai Bà Trưng đánh giặc cứu nước". Bài: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (Năm 938) kể chuyện: Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng lịch sử. Bài: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, giáo viên có thể cho học sinh xem video: Vua cờ lau. Hoặc kể chuyện về ông vua này. Bài: Chùa thời Lý, kể chuyện về các vị sư chùa thời Lý hoặc chuyện tu hành của hai công chúa thời Lý. Bài: Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long, kể chuyện: Giải mã cuộc hành trình thần tốc
Tài liệu đính kèm: