1. Lý do chọn đề tài:
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học môn toán hiện nay là
tích cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dây và phát triển khả năng tự học,
nhằm hình thành cho học sinh tư duy, tích cực, độc lập, sáng tạo. Vì vậy người
giáo viên phải hết sức năng động sáng tạo vận dụng hợp lí các phương pháp dạy
học phù hợp với hoàn cảnh thực tế của lớp, của trường mình với mục tiêu khắc
phục cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều dạy áp đặt, học thụ động và
từng bước đưa học sinh vào tình huống dạy học có vấn đề phù hợp với mục tiêu
bài dạy và phù hợp với từng nội dung bài dạy.
Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải biết phát huy tính tư duy, sáng tạo
của học sinh khá giỏi. Là người giáo viên nhiều năm công tác tôi luôn trăn trở
làm thế nào để kết hợp hài hoà giữa các học sinh giỏi, khá, trung bình ,yếu kém.
Điều đó nảy sinh trong tôi những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ
môn toán? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? có biện pháp
nào để tạo niềm say mê cho các em?.Với mong muốn hiện nay của tôi là tích
cực hoá hoạt động của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm
hình thành cho học sinh tư duy, tích cực, độc lập, sáng tạo. Vì vậy người giáo
viên phải hết sức năng động sáng tạo vận dụng hợp lí các phương pháp dạy học
phù hợp với hoàn cảnh thực tế của lớp, của trường mình với mục tiêu khắc phục
cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều dạy áp đặt, học thụ động và từng
bước đưa học sinh vào tình huống dạy học có vấn đề phù hợp với mục tiêu bài
dạy và phù hợp với từng nội dung bài dạy.
Với định hướng dạy toán một cách thật căn bản, xác định các vấn đề trọng
tâm cơ bản để truyền thụ cùng với các tác động dạy học tích cực, lấp dần các chỗ
trống kiến thức, từng bước rèn cho học sinh biết tự mình làm bài và chú ý rèn kỹ
năng tính toán, kỹ năng làm bài tập.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS
Nguyễn Trường Tộ, tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức
cơ bản của môn Toán nói chung, phân môn Hình học nói riêng. Điều đó thể hiện
qua chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu2
còn nhiều. Quá trình kiểm tra đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là : phân
môn Hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức nhiều muốn tìm ra phương pháp giả
tương đối khó đối với học sinh. Từ đó đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài:
“ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8”
ộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu 2 còn nhiều. Quá trình kiểm tra đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là : phân môn Hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức nhiều muốn tìm ra phương pháp giả tương đối khó đối với học sinh. Từ đó đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Và khi ấy người giáo viên thực sự dành cho các em một sự động viên, khích lệ kịp thời để tạo ra một bước đột phá trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS. 3. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh khối 8. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Trong sáng kiến này tôi chỉ nêu ra những hạn chế của học sinh khối 8 trường THCS Nguyễn Trường Tộ trong việc học môn toán nói chung và môn hình học nói riêng. Những khó khăn học sinh mắc phải từ đó đưa ra các giải pháp tạo cho các em niềm say mê, hứng thú với bộ môn .Qua đó cải thiện và nâng cao chất lượng môn Toán trong nhà trường 5. Phương pháp nghiên cứu. 3 - Đọc tài liệu - Phương pháp nghiên cứu sư phạm (thông qua kết quả học sinh .) - Phương pháp quan sát (thông qua các tiết dự giờ thao giảng). - Thông qua các tiết dạy thực tế trên lớp. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Hoạt động sư phạm là một hoạt động đặc biệt vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi người giáo viên một năng lực sư phạm vững vàng, một phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của người giáo viên. Muốn đạt điều đó, bên cạnh việc trau bồi kiến thức chuyên môn thông qua các hình thức khác nhau thì việc nghiên cứu để tạo cho mình một tiếng nói sư phạm riêng lại rất cần thiết. Điều đó giúp giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, phù hợp khả năng tiếp thu của từng đối tượng. Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói chung, phân môn Hình học nói riêng để học sinh có hứng thú học tập là nhiệm vụ của người làm công tác giảng dạy. 2. Thực trạng: 2.1. Thuận lợi: Học sinh đang ở lứa tuổi hiếu động, thích tò mò, ưa khám phá và muốn mọi người công nhận năng lực của mình. 4 Môn toán là môn khoa học luôn được chú trọng cao và được sự quan tâm hướng dẫn của nhà trường. 2.2. Khó khăn: Nhiều học sinh không nhớ các kiến thức cũ, lượng kiến thức nhiều, trừu tượng nên các em khó nhớ, khó tiếp thu kiến thức mới, nhanh quên, chưa hệ thống được kiến thức, vì thế dễ dẫn đến chán nản, thiếu tự tin. Học sinh chưa có hứng thú với môn hình học. * Các nguyên nhân, yêu tố tác động: Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước giải rất cụ thể ; thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức lí thuýêt với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất khó khăn trong việc chữa bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu. Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình..... Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của lớp 8A1 đầu năm học 2018 – 2019 cho thấy kết quả: Tổng số HS Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú SL % SL % 31 4 13 27 87 Kết quả kiểm tra kết quả cuối học kỳ 2 năm học 2017 – 2018: TSHS Khá giỏi Trung bình Yếu kém 5 SL % SL % SL % 31 3 9,6 15 48,4 13 42 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp: Tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Hình học nói chung và môn Hình học 8 nói riêng, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Toán. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. Từ thực trạng học tập của học sinh trường THCS Nguyễn Trường Tộ trong phân môn Hình học, đặc biệt là kết quả khảo sát của giáo viên bộ môn, kết quả của các em còn thấp nên tôi đã tiến hành áp dụng các phương pháp nhằm gây hứng thú cho các em trong giờ học Hình học như sau: Giải pháp 1. Tạo niềm tin, hình thành động cơ, gây say mê và yêu thích môn học. Như đã khẳng định học sinh THCS là lứa tuổi rất hiếu động, thích tò mò, ưa khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lí để chinh phục kiến thức. Thường xuyên gần gũi, động viên, chỉ dẫn, kèm cặp các em, trao đổi một số kinh nghiệm học tập đạt hiệu quả, luôn tạo cho học sinh tâm lí thoải mái, xây dựng thói quen học tập tích cực, cung cấp các phương pháp học tập khoa học, khuyến khích các em không ngừng cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó khăn để vươn lên và có niềm tin, say mê trong học tập. Ví dụ: Kể cho học sinh nghe về những tấm gương học giỏi vượt khó tiêu biểu Giải pháp 2. Củng cố vững chắc kiến thức “nền”, “hỏng” của năm học trước. Để giải một bài toán hình học không chỉ đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức mới mà cần nhớ, liên kết rất nhiều kiến thức cũ của những năm học trước, vì thế khi được củng cố vững chắc kiến thức “nền” là tiền đề quan trọng để kích thích và tạo say mê, hứng thú cho học sinh lĩnh hội những kiến thức mới. Khi dạy 6 nên lồng ghép ôn lại kiến thức cũ bằng cách trước mỗi tiết học luôn đặt câu hỏi (phiếu học tập hoặc treo bảng phụ) về kiến thức hình học cần nhắc lại có nội dung liên hệ đến bài học mới cho về nhà làm, tiết sau dành khoảng 1 phút đầu giờ sửa bài và khắc sâu hơn kiến thức cũ cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài Hình chữ nhật, phần áp dụng váo tam giác cần cho học sinh nhắc lại định lý Pytago để áp dụng những kiến thức liên quan để giải quyết vấn đề. Giải pháp 3. Tạo hứng thú cho học sinh khi tìm hiểu kiến thức mới. Làm thế nào để tạo hứng thú cho các em trong giờ học? Rõ ràng để làm được điều này giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng tôi khi dạy giờ Hình học thường chọn cho mình phương pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: đưa ra tình huống trong thực tế hoặc kể một câu chuyện có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó học sinh tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn. Giải pháp 4: Áp dụng liên hệ vào thực tiễn kiến thức bài học của học sinh tiếp thu được. Môn Hình học là phân môn gắn liền với thực tế cuộc sống, vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần phải cho học sinh liên hệ kiến thức đã học vào thực tế, sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc hàng ngày. Điều này làm cho học sinh khỏi phải trừu tượng khi học lí thuyết và các em có thể nhớ kiến thức lâu hơn. Ví dụ: Khi học chương tứ giác giáo viên hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để được chính xác các hình “ hình thang cân” thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai đáy song song, rồi cắt hai cạnh bên bằng nhau; cắt hình thoi thì phải gấp hai lần tờ giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình thoi có hai đường chéo là trục đối xững và bốn cạnh bằng nhau. Học xong chương 2 “ Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ, mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên trường sau đó tổng hợp lại để biết được diện tích của khuôn viên trường. Ví dụ : Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn đề làm thế nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm A, B ở hai bên bờ ao? 7 Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt được một hình chữ H nhanh như tờ giấy hình chữ nhật. Khi dạy bài diện tích đa giác, tôi cho học sinh cho đa giác trong thực tế, sau đó phân học sinh theo nhóm để thực hiện chia đa giác thành các hình có thể tính diện tích rồi tiến hành tính diện tích đa giác. Khi dạy bài “ Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa xếp lại dễ dàng đẩy ra kéo vào được? Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ...là yếu tố không thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm những vật thật trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài Đường thẳng song song cách đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui mè ở mái nhà. Bài “ Diện tích đa giác” tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện tích nhà mình mấy m2...... Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ, học sinh tham gia xây dựng bài rất tích cực, đồng thời các em nhớ lâu và vận dụng làm bài tập nhanh hơn. Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng, từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng tham gia xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng A B H 8 cần phải gợi mở, dễ hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em. Làm như vậy trong mỗi tiết học huy động tất cả các đối tượng học sinh vào xây dựng bài học. Giải pháp 5. Xây dựng các bước giải bài toán hình theo sơ đồ ngược (phân tích đi lên). Bằng cách xây dựng các bước giải theo sơ đồ ngược giúp học sinh có hướng suy nghĩ dễ hiểu, có kỹ thuật giải toán hình hệ thống, luôn có tác dụng gợi mở, tác động mạnh đến tư duy của học sinh (bao gồm tư duy phân tích và tư duy tổng hợp), một cách chặt chẽ và hiệu quả nhất. Cùng học sinh tháo gỡ từng vướng mắc, giải các bài tập từ dễ đến khó thì tôi tin rằng sẽ làm cho các em hứng thú học, rèn luyện khả năng tự học, tự tìm tòi kiến thức với môn hình và kết quả sẽ cao hơn. Ví dụ: Bài 49- sgk tập 1, trang 93 – Tiết 11. Hình bình hành Bài toán :Cho hình bình hành ABCD. Gọi I và K theo thứ tự là trung điểm của CD và AB . Đường chéo BD cắt AI, CK lần lượt tại M và N. Chứng minh rằng a) AI// CK b) DM= MN = NB Khi hướng dẫn cho học sinh giải bài tập tôi phân tích theo sơ đồ : *) Sơ đồ c/m AI // CK AI//CK AKCI là hình bình hành IC // AK IC = AK AB//DC AB=DC *) Sơ đồ c/m DM= MN= NB DM= MN= NB DM=MN MN= NB MI//CN DI=IC AK= KB KN//AI AKCI giả thiết AKCI giả thiết M N I KA B D C 9 ABCD là hình bình hành là hbh là hbh Giải pháp 6. Tạo hứng thú, sự hấp dẫn cho học sinh trong những tiết ôn tập. Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hóa kiến thức trọng tâm, tạo hứng thú cho học sinh bằng cách cho những trò chơi: hệ thống kiến thức bằng sơ đồ họăc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào những ô trống. Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan giữa các phần đã học. Từ đó các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu. Chẳng hạn: chương “tứ giác” giáo viên chuẩn bị sơ đồ về mối liên hệ của các tứ giác trên bảng phụ kết hợp với các hiệu ứng trình chiếu trên giáo án điện tử thay đổi theo từng hình cho các em trả lời định nghĩa, tính chất và dấu hiệu nhận biết. Tuy nhiên sự hứng thú cho phân môn Hình học không chỉ tạo ra trong tiết học mà còn phải kích thích cho học sinh trong thời gian học ở nhà. Chính vì vậy, 10 đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy có thể phối hợp với giáo viên trong cùng phân môn ở các khối lớp tổ chức những chuyên đề tìm ra cách giải nhanh, ngắn gọn cho những bài toán hoặc sáng tạo ra những thiết bị, mô hình ứng dụng của hình học...Những tình huống phát huy được khả năng tư duy sáng tạo, giúp các em tin tưởng và yêu thích môn học. Giải pháp 7. Tạo hứng thú cho học sinh khi giải bài tập. Học kết hợp với hành là một phương pháp học tập quan trọng mà giáo viên nào cũng phải hình thành và rèn luyện cho học sinh. Song học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chất chặt chẽ, lôgíc và trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích kỹ bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến bài toán. Cần phát huy sức mạnh của tập thể trong học tập. Bởi vì khi giảng bài tập giáo viên cho học sinh hoạt dộng theo nhóm từ 4 đến 6 em, tùy theo yêu cầu của bài toán, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chỉ định , được giao cùng nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên phải làm việc tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Nhóm cử ra một bạn đại diện trình bày trước lớp. Ví dụ: Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89, trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 trình độ khác nhau như yếu kém, trung bình, khá, giỏi. phân công nhiệm vụ cho từng nhóm: + yếu kém làm câu a), + trung bình làm câu b) +khá làm câu c), + giỏi làm câu d). Sau đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả. Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan trọng, vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra thành nhiều dạng: Bài tập cơ bản áp dụng ngay công thức, định nghĩa, định lí vừa học giúp học sinh có niềm tin và khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán học; 11 dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, hứng thú khám phá...nhằm củng cố lại kiến thức của phần hay chương đó. Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tập về nhà cho các em, từ đó các em có thể làm các bài tập tương tự thuận lợi hơn. Giải pháp 8. Tạo hứng thú cho học sinh khi vẽ hình. Khả năng vẽ hình không phải học sinh nào cũng có, trong khi học phân môn Hình học một yếu tố quan trọng là phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước, yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Cần những dụng cụ nào?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới. Khi vẽ cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang kí hiệu hình học. Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể: Rèn cho học sinh có thói quen kí hiệu trên hình vẽ các trường hợp: điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình.... Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ: + Êke: vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song.... + Compa: vẽ đường tròn, cung tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau.. + Thước thẳng: vẽ đường thẳng... Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình đó là sử dụng phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lí ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ vẽ hình. Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu các bước vẽ hình cho học sinh quan sát. Ví dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng Compa để vẽ bốn cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần dựng hình ở chế độ tự động ( Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 dối tượng. 12 - Lấy hai điểm A, C bất kì - Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung tròn tâm C có cùng bán kính. - Hai cung tròn trên cắt nhau tại điểm B và D. - Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được hình thoi ABCD. Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng bước dựng hình thoi, từ đó có thế vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó khăn. Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt. Chẳng hạn: Cho tam giác ABC thì không nên vẽ cân, vuông hay đều. Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB. Giải pháp 9. Hệ thống kiến thức đã học bằng sơ đồ tư duy. Củng cố kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy có thể giúp học sinh dễ nhớ, nhớ lâu, rút ngắn được thời gian học, dễ dàng hệ thống hóa lượng lớn kiến thức. Sau tiết học yêu cầu các em vẽ sơ đồ tư duy hệ thống lại kiến thức đã học theo cách hiểu của mình, giáo viên nhận xét chỉnh sửa và cho học sinh lưu lại. Nhờ đó, giúp các em lĩnh hội trọn vẹn kiến thức thật nhẹ nhàng, phát triển tính sáng tạo và khả năng tư duy logic, khắc sâu kiến thức bài học đồng thời có tài liệu tổng hợp kiến thức khi cần thiết. Ví dụ: Sơ đồ tư duy kiến thức bài Hình vuông 13 4. Kết quả khảo nghiệm Trong quá trình giảng dạy học kỳ I vừa qua khi áp dụng kinh nghiệm của mình để soạn giảng và vận dụng vào thực tế tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng mừng: - Học sinh đã có thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi bài. - Phần lớn các bài kiểm tra đã được nâng lên, các em vẽ hình đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh chứng minh lôgíc và chặt chẽ được tăng lên. - Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn các kiến thức như: đo đạc, cắt hình, xác định
Tài liệu đính kèm: