SKKN Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn Toán lớp 4

SKKN Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn Toán lớp 4

 Trong những buổi học phụ đạo, tôi hướng dẫn cho học sinh giải các dạng toán đã học trong tuần. Ưu tiên 4 bạn này được thường xuyên lên bảng thực hiện trước. Các bạn khác nhận xét, bổ sung. Nếu các bạn đó thực hiện sai thì được các bạn khác phát hiện và yêu cầu bạn đó nêu lại cách thực hiện, nêu rõ xem mình sai ở bước nào.

 Tôi tiến hành ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung những bài học sẽ học trong tuần kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức dã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học sinh.

 Chẳng hạn: trước khi học phần phép chia, tôi ôn cho học sinh về phép chia cho số có 1 chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước lượng tìm thương của phép chia cho số có 2, 3 chữ số. Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và mau quên. Các kiến thức cũ phải được giáo viên củng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó. Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 số đó. Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó. Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạng này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng.

 

doc 19 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 2302Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn Toán lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 một bài kiểm tra để so sánh kết quả một cách cụ thể.
 II. NỘI DUNG
 1. Cơ sở lí luận 
Môn Toán là môn học mà chúng ta cần phải học và vận dụng vào trong cuộc sống sau này, cho dù làm bất cứ công việc gì cũng có sự tính toán mới đạt được mục đích và yêu cầu mà mình mong muốn. Môn toán ở tiểu học là một môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học của các em. Nó là một môn khoa học nghiên cứu có hệ thống phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. 
Đối với môn Toán là môn học tự nhiên nhưng rất trừu tượng, đa dạng, lôgic và hoàn toàn gắn với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Bởi vậy, nếu học sinh không có phương pháp học đúng sẽ không nắm được kiến thức cơ bản về Toán học.
	Môn Toán là một trong những môn học có vị trí rất quan trọng. Nó là chìa khoá để mở ra các môn học khác. Đồng thời nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ cần thiết giúp con người vận dụng vào cuộc sống hàng ngày. Trong giờ toán, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phương pháp giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên cần phải giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức toán học. Học sinh có phương pháp học toán phù hợp với từng dạng bài toán thì việc học mới đạt kết quả cao. Từ việc học tốt môn toán, các em có được nền tảng vững chắc để học tốt các môn học khác.
 2. Thực trạng 
 a) Thuận lợi, khó khăn 
 *Thuận lợi 
 Bản thân tôi đã nhiều năm đứng lớp, tiếp xúc được nhiều đối tượng học sinh, hiểu và nắm được tâm lí của những học sinh yếu. Đồng thời đã qua nhiều năm giảng dạy lớp 4 nên đã tích luỹ được một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn và giúp đỡ học sinh lớp 4 học toán một cách hiệu quả.
Bản thân tôi đã nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học toán nên tôi đã tìm hiểu kĩ mục tiêu, nội dung bài dạy rồi soạn bài, lên lớp truyền đạt đầy đủ những nội dung mà mục tiêu yêu cầu, kết hợp nhiều phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Trong giảng dạy tôi có mở rộng nội dung bài dạy cho phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, học tập thực hành phù hợp để ôn tập kiến thức và kĩ năng trong từng giai đoạn học tập của học sinh. Nhìn chung, học sinh có hứng thú học tập, tất cả đều hiểu bài và làm bài tập tốt, biết cách trình bày bài và giải đúng kết quả.
* Khó khăn. 
Do điều kiện kinh tế còn khó khăn và trình độ học vấn chưa cao nên đa số phụ huynh là người dân tộc thiểu số chưa chú ý đến việc học hành của con, đặc biệt là chưa nhận thức đúng vai trò của môn toán trong trường Tiểu học. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, chưa tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng, để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy giảng, rất nhanh quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh, nhất là đối với những học sinh khó khăn. 
 b) Thành công, hạn chế 
 *Thành công : Thành công của tôi trong những năm thực hiện đề tài này là đã giúp đỡ được một số em học yếu môn toán có tiến bộ hơn. Từ việc học tốt môn toán, các em có được nền tảng vững chắc để học tốt các môn học khác. Do đó việc lắp chỗ hổng kiến thức toán giúp học sinh nắm một cách có hệ thống kiến thức toán theo chuẩn kiến thức kỹ năng qui định là cần thiết. Khắc phục được tình trạng học sinh yếu kém giảm, tạo điều kiện cho học sinh hứng thú say mê học tập, tạo ra mối đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong học tập của học sinh, các em thi đua học tập kết quả ngày càng tiến bộ.
 *Hạn chế : Ban đầu một số học sinh chưa tự giác học tập, giáo viên mất nhiều thời gian cho đối tượng học sinh yếu.
 c) Mặt mạnh, mặt yếu
	*Mặt mạnh : Tạo ra phong trào thi đua học tập giữa các em học sinh và các nhóm học tập xây dựng được không khí học tập trong lớp học sôi nổi hứng thú và đưa kết quả học tập ngày càng cao.
 *Mặt yếu: Hoàn cảnh của các em học sinh yếu đều khó khăn, bố mẹ làm nông, 4 trong số phụ huynh của các em chưa học hết lớp 5. Đa số phụ huynh đều thiếu quan tâm đến việc học hành của con em mình. Chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học đối với các em. Có em còn phải đi làm thêm những công việc như mót cà phê, nhặt hạt điềucó em ở lứa tuổi này phải chứng kiến cảnh chia tay của bố mẹ dẫn đến em đó dường như mất niềm tin trong cuộc sống. Các em có cảm giác sợ cô giáo hỏi bài hoặc chú ý đến mình chứ không phải là tích cực học tập. Thường có tư tưởng chán học và nếu không được coi trọng đầu tư phụ đạo rất có thể các em học đã yếu lại càng yếu hơn. Nguy cơ bỏ học sẽ là điều sớm muộn.
 d) Nguyên nhân và các yếu tố tác động 
 Tỷ lệ học sinh yếu kém bộ môn Toán của một số học sinh là vì các em không có thói quen tự học ở nhà, cha mẹ cũng không thể hướng dẫn cho con em học vì nhiều lý do. Bên cạnh đó, có học sinh yếu kém do chưa nhận thức đúng mục đích, động cơ học tập. Một số em do hoàn cảnh khó khăn thỉnh thoảng lại nghỉ ở nhà để trông nhà giúp bố mẹ nên đã yếu lại càng yếu hơn, không theo kịp chương trình học tập.
 Với rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến học sinh yếu môn toán nhưng trong đó có một số nguyên nhân khác từ phía giáo viên như sau:
Giáo viên chưa theo dõi sát sao, kịp thời các biểu hiện sa sút của HS nên nhiều HS đã kém lại càng thêm kém, lỗ hổng kiến thức ngày càng lớn.
Giáo viên chỉ chú trọng đến HS đại trà, trong giảng dạy chưa nắm vững yêu cầu kiến thức kĩ năng của từng bài dạy dẫn đến dạy dàn trải, không xoáy sâu trọng tâm. Trong lúc HS chưa nắm vững kiến thức cơ bản thì GV lại muốn nâng cao, mở rộng kiến thức một cách tùy tiện, tốc độ giảng dạy bài mới và luyện tập còn nhanh khiến cho HS yếu không theo kịp. Trong khi đó, việc thực hiện lập kế hoạch bộ môn và điều chỉnh dạy học cho phù hợp với tình hình thực tế lớp học là rất quan trọng và rất cần thiết nhưng một số giáo viên lại cho là phiền phức mất thời gian nên chỉ thực hiện hình thức, đối phó dẫn đến chất lượng học tập của học sinh yếu ngày càng yếu hơn.
 e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Do sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm khi phân tích tổng hợp thường dựa vào các dấu hiệu dễ thấy bên ngoài, khó phân biệt được các dấu hiệu bản chất của bài tập khả năng phân tích tổng hợp kém, phát triển chậm. Hoạt động tư duy kém linh hoạt, các em gặp khó khăn khi chuyển từ hình thức thao tác tư duy này sang hình thức tư duy khác. Lý thuyết sang thực hành vào bài toán cụ thể. Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đều trong hoạt động tư duy. Có những nét riêng với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước đó không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ học toán của các em chưa tốt. Các em không thích môn toán vì khô khan không hình ảnh như những môn học khác. Hoạt động tư duy kém sử dụng ngôn ngữ toán học còn lúng túng nhiều chỗ lẫn lộn. Không hệ thống được lượng kiến thức đã học. Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau. Các em học yếu tính chậm, chủ yếu dựa vào trực quan hoặc lời gợi ý, góp ý của giáo viên mới tính được, hoặc nhớ bài một cách máy móc. Đặt tính chưa đúng. Từ việc lĩnh hội kiến thức thiếu vững chắc đó, các em có thái độ thờ ơ với việc học không chịu cố gắng ngại khó thiếu tự tin thụ động chán nản trong học tập.
 3. Giải pháp, biện pháp.
 a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
 Trong quá trình học tập, học sinh yếu kém thường không hứng thú với tiết học toán, thiếu kiến thức cơ bản về môn Toán. Trong giờ học, các em thường không tự phát hiện ra kiến thức, mà chỉ dừng lại ở mức nhắc lại rập khuôn một quy tắc có sẵn. Nhìn chung các em lười tư duy. Khi thảo luận nhóm các em thường ỷ lại các bạn cùng nhóm, không dũng cảm đưa ra ý kiến của cá nhân. Khi nhận xét bài của bạn làm thì thường trả lời đúng hoặc sai mà không có lý giải vì sao đúng? Vì sao sai ?. Ở nhà thường không có góc học tập dành riêng cho mình, sách vở không bao bọc cẩn thận, chu đáo. Các em thường có tâm lý tự ti, mặc cảm với bạn bè cùng trang lứa, kém chuyên cần trong học tập, ít tham gia các hoạt động tập thể có ý nghĩa như lao động, văn nghệ Nhận thức được rõ vấn đề này do đó cần có những mục tiêu giải pháp phù hợp với lứa tuổi và thực tế để tạo điều kiện cho các em có điều kiện tham gia học tập tốt nhất.
 b) Nội dung và cách thức thực hiện. 
 Vào những ngày đầu năm học, giáo viên theo dõi từng học sinh trong quá trình học tập và kết quả khảo sát phát hiện ra các em học yếu toán, cộng , trừ, nhân, chia sai tính toán chậm và không nắm cách tính. Tìm hiểu lý do học yếu từng em, sau đó liên hệ với gia đình học sinh đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp. Ngay sau khi khảo sát chất lượng của lớp đầu năm, giáo viên đã theo sát lớp tìm hiểu kĩ từng đối tượng. Sau 2 tuần lễ, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo học sinh yếu toán, giúp các em nhớ lại các kiến thức đã hỏng dần dần giúp các em lắp lại chổ hỏng kiến thức, nắm chắc kiến thức cơ bản đã học để các em tiếp tục học tốt trong thời gian còn lại.
Tổ chức phân dạng HS yếu môn toán: Mỗi học sinh yếu môn toán đều có nguyên nhân riêng rất đa dạng. Có thể chia ra một số đối tượng thường gặp là:
 * Đối tượng 1: Do quên kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán yếu.
 * Đối tượng 2: Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy bị hạn chế (loại trừ những học sinh bị bệnh lý bẩm sinh). Nhiều học sinh thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán học kém phát triển.
 * Đối tượng 3: Do lười học, phương pháp học tập chưa tốt
 * Đối tượng 4: Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động - học sinh có hoàn cảnh đặc biệt (gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le, trẻ khuyết tật, điều kiện sức khỏe chưa tốt).
Dù cho học sinh yếu ở dạng nào thì trước hết bản thân người giáo viên phải có ý thức về vai trò của mình. Có như vậy người giáo viên mới có trách nhiệm, sự nhiệt tình và thấy cần thiết trong việc tự bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú cho các em trong lớp nói chung và với học sinh yếu kém môn Toán nói riêng. Xây dựng hình ảnh đẹp, tạo niềm tin cho học sinh, phụ huynh và lãnh đạo địa phương.
 Nắm vững bản chất của môn học: đây là bộ môn học khá khô khan và tính tích hợp rõ ràng. Do vậy khi dạy học cần lựa chọn hình thức phong phú, hấp dẫn. Có câu hỏi gợi ý một cách lôgic đi từ đơn giản đến phức tạp; cần liên hệ, xâu chuỗi kiến thức đã học giúp học sinh tự phát hiện kiến thức mới. Đặc biệt thiết kế bài dạy cần phải có những câu hỏi đơn giản hơn dành cho học sinh yếu kém sao cho các em học yếu cũng có cơ hội được phát biểu ý kiến. Chú ý khen ngợi các em khi các em có những biểu hiện tiến bộ dù là rất nhỏ.
 Ngoài chương trình đã có theo quy định, có chương trình giảng dạy dành riêng cho đối tượng này.
 Để thực hiện được biện pháp này tôi đã đăng ký với BGH nhà trường cho các em tổ chức học nhóm vào các buổi chiều thứ 3, thứ 6 và sáng thứ 7 hàng tuần. Chương trình giảng dạy đựơc tiến hành theo các bước sau:
* Tổ chức học nhóm vào các buổi chiều ngày thứ 4 ,6
 Bước 1: Tiến hành kiểm tra lại chất lượng 4 học sinh để đánh giá thực chất (ngày 10/10/2013) * Đề kiểm tra:
Bài 1: Đọc, viết số
Đọc số : 10 672
Viết số : Sáu mươi hai nghìn ba trăm bốn mươi hai.
Bài 2: Đặt tính rồi tính 
 a) 1486 + 2740 = ? c) 65 x 7 =?
 b) 8314 - 195 = ? d) 189 : 9 =?
Kết quả cụ thể một số em học yếu:
STT
Họ và tên
 ĐÁNH GIÁ 
BÀI 1
BÀI 2
a
b
a
b
c
d
1
 Y Wel 
Đúng
Đúng
Sai
Sai
Sai
Sai
2
 Y Si-măn
Đúng
Đúng
Sai
Sai
Đúng
Sai
3
 HVon
Đúng
Đúng
Sai
Sai
Sai
Sai
4
 Y Tũ
Đúng
Đúng
Đúng
Sai
Sai
Sai
 Bước 2: Dựa vào kết quả khảo sát trên đánh giá thực chất xem các em hổng kiến thức ở dạng nào.
 Qua bài kiểm tra cho thấy các em vẫn chưa thành thạo trong cộng trừ có nhớ, chưa thuộc bảng cửu chương.
 Bước 3: Tổ chức xếp lại vị trí ngồi học và phân công nhiệm vụ cho 4 em học khá, giỏi trong lớp kèm cặp, giúp đỡ 4 em này vào các buổi chiều thứ 4, 6 (Giáo viên nêu rõ mục đích yêu cầu sau khi phân công và so sánh kết quả học tập của các em sau mỗi tuần ) cụ thể :
 Cặp 1: Em Linh kèm cặp em Y Wel
 Cặp 2 : Em Thao kèm cặp em Ysi-măn 
 Cặp 3: Em HWai kèm cặp em HVon
 Cặp 4 : Em Thảo kèm cặp em Y Tũ
 Nội dung: Giáo viên hướng dẫn cho cặp đôi những nhiệm vụ ban đầu cần thiết như:
 + Yêu cầu cặp đôi của mình thuộc bảng “ Phép cộng trừ trong phạm vi 10”
+ Hướng dẫn cách cộng, trừ nhẩm 
Ví dụ 1 : 8 +5 ( tách 5 thành 2 và 3 để có 2+8 = 10; 10 +3 = 13 )
Ví dụ 2: 15-7 (tách 15 thành 10 và 5, lấy 10- 7 =3; 3+5 = 8)
 Tiếp tục giúp bạn mình học thuộc bảng cửu chương bằng cách nắm được cấu tạo của từng bảng nhân, chia sau đó bạn khá soát lỗi giúp bạn học yếu.
 Tổ chức thi đua giữa 4 bạn của 4 cặp để đánh giá sự tiến bộ của 4 cặp đôi.
 Bước 4: Khảo sát chất lượng môn Toán của 4 em lần 2 ( ngày 10/ 11/2013)
 *Đề kiểm tra lần 2 như sau:
Bài 1. Đặt tính rồi tính 
 a) 7282 + 1386 = c) 126 x 8=
 b) 981287 – 783299 = d) 18418 : 4 =
Bài 2. Thùng thứ nhất có 16 lít dầu. Thùng thứ hai nhiều gấp đôi thùng thứ nhất. Hỏi thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu?
 Kết quả bài làm của 4 em đó như sau: 
STT
Họ và tên
 ĐÁNH GIÁ 
BÀI 1
 BÀI 2
a
b
c
d
1
 Y Wel 
Đúng
Đúng
Đúng
Đúng
Đúng
2
 Y Si-măn
Đúng
Đúng
Đúng
Sai
Đúng
3
 HVon
Đúng
Đúng
Đúng
Đúng
Sai 
4
 Y Tũ
Đúng
Đúng
Đúng
Đúng
Đúng
 * Phụ đạo vào buổi sáng thứ 7
 Trong những buổi học phụ đạo, tôi hướng dẫn cho học sinh giải các dạng toán đã học trong tuần. Ưu tiên 4 bạn này được thường xuyên lên bảng thực hiện trước. Các bạn khác nhận xét, bổ sung. Nếu các bạn đó thực hiện sai thì được các bạn khác phát hiện và yêu cầu bạn đó nêu lại cách thực hiện, nêu rõ xem mình sai ở bước nào.
 Tôi tiến hành ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung những bài học sẽ học trong tuần kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức dã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học sinh.
 Chẳng hạn: trước khi học phần phép chia, tôi ôn cho học sinh về phép chia cho số có 1 chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước lượng tìm thương của phép chia cho số có 2, 3 chữ số. Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và mau quên. Các kiến thức cũ phải được giáo viên củng cố lại nhiều lần khi có liên quan đến nội dung bài mới, giúp các em biết được mối liên hệ, biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn phải cho học sinh thấy rõ sự khác biệt của các dạng toán có mối liên quan với nhau. Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó. Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 số đó. Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó. Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạng này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng. 
 Trong từng mạch kiến thức giáo viên cần cốt lại cách thực hiện bằng lời nói đơn giản, dễ hiểu, “Nôm na” nhằm khắc sâu kiến thức. Nói rõ hơn đó là giúp học sinh thấy rõ cách nhớ của từng đơn vị kiến thức.
* Ví vụ:
Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số chia, thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, ta có thể cho học sinh nắm cách nhận biết đơn giản nhất. Thực hiện một phép tính cụ thể đơn giản có liên quan đến phép tính của đề, sau đó cho học sinh nhận dạng tìm số nào trong phép tính đó. (Tìm các thành phần còn lại; tìm số bị trừ ; thực hiện cộng, tính nhân khi tìm số bị chia)
Chẳng hạn trong bài: Tìm x biết 365 : x = 73. Đối với dạng bài này tôi đưa ra ví dụ cụ thể như sau: 15 : 3 = 5. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy trong phép chia 15 : 3 = 5 thì( số 3) chính là thành phần cần tìm trong phép tính 365 : x = 73. Sau đó hỏi muốn tìm số 3 ta phải làm như thế nào? ( lấy 15 : 5 = 3 ), vậy muốn tìm x ta làm như thế nào? ( 365 : 73 ). Làm tương tự với các dạng tìm x khác.
Hoặc dạng đổi đơn vị đo khối lượng từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn: ta thực hiện phép tính nhân (2kg =.g. Ta có: 2 x 1000 = 2000 g) và ngược lại từ đơn vị nhỏ đổi ra đơn vị lớn ta thực hiện tính chia (chẳng hạn: 36000 kg = ..tấn, ta có: 36000: 1000 = 36 tấn.)
Khi phụ đạo về phép chia ở 1,2 tiết đầu tôi cho các em làm việc nhóm đôi, tôi quan sát thấy nhóm nào thực hiện chia tốt sẽ cho các em làm việc cá nhân. Đôi lúc tổ chức cho các em thi đua thực hiện phép chia, đố vui về bảng nhân bảng chia. Hay khi dạy về đơn vị đo thời gian (giây; thể kỉ) tôi cho học sinh quan sát sự chuyển động trên mặt đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây đi từ một vạch nhỏ đến vạch nhỏ liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi hết một vòng trên đồng hồ là 60 giây tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60 giây.
Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu hơn, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kĩ.
Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, nhắc nhở đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề hoặc tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về “chất”.
 Dạy cho các em phương pháp học, giáo viên giúp các em có thể tự đánh giá bài làm của mình bằng cách thử lại kết quả bài toán. 
 Chẳng hạn :
Lấy phép trừ để thử kết quả phép cộng ( hoặc ngược lại )
Lấy phép nhân để thử kết quả phép chia ( hoặc ngựơc lại)
 Lấy kết quả thay vào thành phần chưa biết để thực hiện ( dạng bài tìm một thành phần chưa biết )
 Lớp tôi được trang bị loại bàn ghế 2 chỗ ngồi. Tôi đã phân công nhiệm vụ cho từng em (bàn trưởng, bàn phó) để mỗi em đều được giữ một chức vụ và đều phải xác định được nhiệm vụ của mình, góp phần trong việc đưa thành tích của nhóm đôi ngày một đi lên.
 Tạo phong trào thi đua sôi nổi giữa các nhóm, tổ nhằm nâng cao chất lượng học tập, tính đoàn kết, thi đua lành mạnh giữa các tổ, tăng cường trách nhiệm đối với những bạn tổ truởng, tổ phó về chất lượng học tập của tổ mình. Tổ chức bình bầu tổ học tốt vào các tiết sinh hoạt lớp ngày thứ 6 hàng tuần về nhiều mặt như : Chuyên cần, vệ sinh, học tập
 c) Điều kiện thực hiện giải pháp.
 Các biện pháp đã trình bày trên đây cần được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và đều khắp thì kết quả đạt được sẽ khả quan. Tuy nhiên tuỳ từng đối tượng, điều kiện giảng dạy mà giáo viên vận dụng những biện pháp trên một cách linh hoạt và mềm dẻo.
 d) Mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp
 Trước đây, khi chưa áp dụng những biện pháp trên, số lượng học sinh yếu kém bộ môn này thường là rất khó tiến bộ. Các em gần như mất gốc lượng kiến thức cơ bản, gây tâm lý chán nản lười học thậm chí có những em có tư tưởng muốn bỏ học giữa chừng. Trong thời gian qua, nhờ áp dụng những biện pháp này đối với 4 em học sinh yếu kém môn toán lớp 4C đã dần nắm được kiến thức cơ bản, tạo cơ sở ban đầu để học sinh lĩnh hội những kiến thức mới sau này. Các em đã hứng thú hơn với những giờ học toán. Ở đây các em đựơc học tập, được bộc lộ rõ khả năng của mình, đặc biệt các em được học hỏi không chỉ ở thầy cô mà còn ở cả bạn bè. Tình cảm giữa các bạn trong lớp với nhau ngày càng trở nên thân thiện, gần gũi.
 e) Kết quả khảo nghiệm và giá trị khoa học của đề tài “Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn Toán lớp 4”
 *Kết quả khảo nghiệm 
STT
HỌ VÀ TÊN
ĐIỂM KIỂM TRA ĐỊNH KỲ MÔN TOÁN NĂM HỌC 2013-2014
GKI
HKI
GKII HKII
1
 Y Wel Êcăm
4
5
	6	 7 
2
 Y Si-măn Hđơk
3
5
	5	 6
3
 Hvon Bya
4
5
 6	 6
4
 Y Tũ Enuôl
5
6
 7 7
 * Giá trị khoa học của đề tài
 Muốn khắc phục tình trang học sinh yếu kém về học lực nói chung trước hết người giáo viên cần nhận thức được vai trò của mình trong dạy học, mỗi giáo viên cần trang bị cho mình những kiến thức sư phạm cần thiết, cần phải học hỏi nhiều hơn nữa về chuyên môn nghiệp vụ

Tài liệu đính kèm:

  • docPHAM THI HUE.doc