SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh Lớp 1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn

SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh Lớp 1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn

Đối với môn toán:

Khi hướng dẫn HS trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn, nắm vững kiến thức trọng tâm, trả lời hoặc làm bài tập có liên quan đến kiến thức đã học, hoàn thành bài với phép tính dễ hiểu với bước giải nhanh nhất.

 Khi hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS nghiên cứu bài tập ở nhà trước, đọc và tập làm một số bài tập trong sách giáo khoa.

Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như: Trực quan, đàm thoại, thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các dồ dùng dạy học (ĐDDH). Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.

Tạo hứng thú cho các em bằng cách: Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân, giữa các tổ, nhóm. Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng, khuyến khích tinh thần cố gắng học tập để các em lần sau thêm tự tin.

 VD: Toán : Bài phép trừ trong phạm vi 4

 Khi hướng dẫn hs thực hiện phép trừ trong phạm vi 4, để giúp hs dễ dàng hình dung ra thế nào là trừ( trừ là lấy đi, mất đi , cho đi) thì gv phải sử dụng hình ảnh trực quan: tranh ảnh hoặc thao tác trên vật thật để hs dễ dàng hình dung.

 

doc 18 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 11765Lượt tải 7 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh Lớp 1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trợ lẫn nhau.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
 * Thuận lợi :
- Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của nhà trường và các đoàn thể.
- Học sinh được ở quanh một khu vực, nhà gần trường.
- Đa số học sinh ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo và người lớn.
- Sách vở, đồ dùng học tập được cha mẹ trang bị đầy đủ.
* Khó khăn
Qua một số tiết dạy đầu năm học, tôi nhận thấy tính tích cực, chủ động của học sinh còn hạn chế, thể hiện qua một số dấu hiệu sau đây: 
- Bản thân học sinh chưa chăm học, tỉ lệ học sinh khó khăn trong học tập còn nhiều, các em không đọc, không chuẩn bị bài khi đến lớp, đi học không mang đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập.Đa số các em còn thụ động, ít phát biểu. Một số em không biết cách diễn đạt, các em còn lúng túng thậm chí có em còn không biết nói gì cả 
- Các em chưa có ý thức lắng nghe và làm theo hướng dẫn của cô .
- Một số em không thích học môn toán, coi việc học toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng. Một số em tiếp thu kiến thức chậm, tư duy hạn chế, thái độ thờ ơ đối với học tập, ham chơi, lười học ngại cố gắng, chưa tự giác, chưa có động cơ học tập còn ỷ lại trông chờ vào giáo viên.
- Trong giờ luyện đọc, viết các em chóng chán, mau quên. Nhất là thời gian luyện đọc nhiều em còn đọc đối phó, tâm trạng mệt mỏi,chán nản, ngại phát biểu,khi được gọi lên trả lời câu hỏi thì thường là đứng im không đưa ra câu trả lời.
Qua quan sát, theo dõi phân loại đầu năm, kết quả như sau:
Đầu năm học 2018 - 2019 :
Sĩ số
Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng thú
27
5
12
10
Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do:
* Về phía giáo viên:
Do trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn lúng túng trong việc vận dụng phương pháp hình thức tổ chức dạy học, chưa chú ý phân loại các đối tượng học sinh trong lớp, còn lúng túng trong việc lập kế hoạch bài giảng. Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức dạy học. Khi lên lớp thường còn nặng nề về cung cấp các kiến thức, vẫn còn giảng dạy theo lối rập khuôn máy móc, chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của học sinh, chưa chú ý đến việc tạo điều kiện giúp cho học sinh tự tìm tòi tiếp thu kiến thức, chưa tạo ra được không khí thi đua giữa các tổ, các cá nhân với cá nhân. Chưa tạo ra được nhiều cơ hội cho học sinh được bày tỏ ý kiến.
Do đồ dùng dạy học còn thiếu, sơ sài, hình ảnh xấu chưa gây được hứng thú tìm tòi làm ảnh hưởng tới sự tiếp thu kiến thức bài học một các chủ động và chiếm lĩnh tri thức mới. 
* Về phía học sinh: 
Các em học sinh ở lứa tuối nhỏ, còn hiếu động, ham chơi hơn ham học, chưa có ý thức đầy đủ về học tập nên giáo viên rất vất vả, thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn để sinh hoạt học tập đúng theo nội quy nhà trường, 
Do ở mẫu giáo các em đang có thói quen vui chơi tương đối tự do, thoải mái tuỳ theo hứng thú của mình, khi vào lớp Một các em phải làm việc trong một tập thể có nội quy, kỉ luật, có hướng dẫn học tập, có trách nhiệm, nghĩa vụ rõ ràng. Các em còn hay đãng trí, khó tập trung chú ý lâu, nhất là khi phải chú ý các đối tượng trừu tượng, ít hấp dẫn. Điều kiện học tập như: dụng cụ học tập, góc học tập còn thiếu thốn. Còn một số ít cha mẹ học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình nên việc truyền thụ kiến thức cho các em còn gặp khó khăn, trình độ học sinh không đồng đều.
3.Nội dung và hình thức của giải pháp:
Đứng trước thực trạng như vậy, tôi đã nghiên cứu, tham khảo tài liệu, ghi chép những kinh nghiệm theo từng tiết dạy, trao đổi thảo luận với đồng nghiệp trong tổ, trong nhà trường cộng với một số kinh nghiệm trong quá trình dạy lớp 1 nhiều năm, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để giúp các em học sinh lớp 1 phát huy được tính tích cực, tự giác trong học tập như sau:
a. Mục tiêu của giải pháp
Cung cấp cho các em những kiến thức kĩ năng cơ bản cần đạt, xây dựng cho các em phương pháp học tập tốt. Giúp các em hứng thú, tích cực thi đua học tập để các em nắm kiến thức ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong giờ học, phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau, tính kiên trì, lòng nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm và ý thức tập thể nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên.
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp 
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều.Trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm gồm:
 Năng lực khoa học
 Năng lực hiểu học sinh
 Năng lực ngôn ngữ
 Năng lực tổ chức
 Năng lực phân phối chú ý
 Năng lực trình bày bài giảng
 Óc tưởng tượng sư phạm
 Ngoài ra muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát huy tính tích cực, tự giác,độc lập của học sinh trong học tập,cụ thể là:
 1.Phương pháp quan sát 6.Phương pháp đóng vai. 
 2.Phương pháp đàm thoại. 7.Phương pháp trò chơi học tập
 3.Phương pháp thảo luận. 8.Phương pháp động não
 4.Phương pháp hỏi đáp. 9.Phương pháp giải quyết vấn đề.
 5.Phương pháp tìm tòi. 10.Phương pháp thực hành luyện tập.
Việc đổi mới phương pháp dạy học tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần thiết. Sự đa dạng của phương pháp dạy học trong sự phối hợp của chúng, đòi hỏi phải có một số hình thức tổ chức dạy học thích hợp. Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực phát triển học sinh một khía cạnh nào đó. Vì vậy, chúng ta cần phải biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức để phát huy thế mạnh của mỗi hình thức tổ chức dạy học. Phương pháp dạy học mới, đòi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn, cụ thể tôi sử dụng các hình thức dạy học sau:
Dạy học cá nhân: Là chú ý phát triển năng lực riêng của từng học sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen tự học, tự làm việc, hình thức dạy học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với phiếu học tập, ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Làm bài tập trong sách, làm các trò chơi, tiến hành các thí nghiệm, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh, thu tập tài liệu, khảo sát thực tế nơi mình ở. 
Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời học sinh biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được công tác tổ chức, điều khiển.
 Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
 - Thảo luận về một vấn đề học tập.
 - Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh một đề tài.
 - Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
 - Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
 - Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.
 - Xây dựng một phương án hay một kế hoạch.
 Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến trong dạy học lấy giáo viên làm trung tâm. Trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, để xuất hiện nhiều hình thức dạy học phù hợp với các phương pháp dạy học đề cao vai trò hoạt động nhận thức của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều tác dụng tích cực, nhưng không diễn ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vào những lúc thích hợp của tiết học như vào đầu, giữa và cuối tiết học.
 Dạy học ngoài trời: Có nhiều nội dung gần gũi, gắn với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Những bài học đó nếu có điều kiện nên tổ chức cho học sinh học ngoài trời những địa điểm thích hợp như vườn trường, sân trường hoặc những địa diểm gần trường. Vì việc học ngoài trời giúp học sinh có biểu tượng rõ nét, cụ thể về sự vật, hiện tượng nên nắm bài tốt hơn vì mắt thấy, tai nghe...Đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, phát triển tư duy cụ thể. Mặt khác, bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, thói quen hợp tác, học hỏi lẫn nhau.
 Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài hiện trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn nuôi, nhà bảo tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông, hồ, thác nước...
 Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh. Học sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được học trong lớp nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn. Liên hệ thực tế với bài học học sinh phát triển kĩ năng quan sát, so sánh, óc tò mò, trí tưởng tượng, bồi dưỡng hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.
 Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được trong mọi lứa tuổi. Đặc biệt là những em ở lứa tuôi tiểu học nói riêng và học sinh lớp 1 nói chung. Trò chơi giúp các em phát triển. Bên cạnh đó sẽ thúc đẩy quá trình nhận thức của các em có hiệu quả. Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý những đặc tính: Vui - Khoẻ - An toàn - Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư giản...được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
 Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh, có hai đặc điểm cơ bản sau:
 + Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
 + Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.
Quan trọng hơn vẫn là sau mỗi trò chơi học sinh càng ham thích hoạt động, tự tin ở bản thân, mạnh dạn khẳng định bản thân.Bên cạnh đó, tinh thần đồng đội, đoàn kết, sự quan tâm giữa những thành viên trong lớp
Tóm lại: Đổi mới phương pháp dạy học cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy học, mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập, tập trung vào các vấn đề sau:
- Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo và linh hoạt trong học tập.Trong đó người thầy giáo đóng vai trò tổ chức hoạt động học của học sinh, thông qua hoạt động , mỗi học sinh đều được hoạt động, được bộc lộ mình và đều có cơ hội phát triển.
- Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
- Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày kiến thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học sinh, nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề nghiên cứu.
 - Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu quả to lớn trong việc dạy học. Bằng những gợi ý, những động viên, khích lệ tạo mọi điều kiện để khai thác hết kiến thức và sự hiểu biết của các em đối với bài học. Tăng cường sử dụng phương tiện, thiết bị dạy học làm tăng hứng thú nhận thức học sinh, khơi dậy niềm say mê và hứng thú tìm tòi, tiếp thu bài học một cách chủ động, chiếm lĩnh kiến thức sâu hơn. 
 - Cải tiến công tác tự học: Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và tiếp thu kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng sự nghiên cứu của cơ sở lí luận dạy học của việc tổ chức công tác tự học của học sinh.Giao công việc cụ thể và phù hợp với từng đối tượng, giúp các em dễ hoàn thành nhiệm vụ và tự tin vào mình hơn. Tạo điều kiện để học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, và tạo cho các em thói quen học tập.
- Trong giờ học giáo viên luôn tạo ra không khí thi đua giữa các tổ, cá nhân bày tỏ ý kiến của mình một cách tự tin.
* Tổ chức thực hiện:
- Đối với việc học ở nhà:
Cho học sinh lập thời gian biểu học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ thể gắn liền với thời gian cụ thể.
Tổ chức họp phụ huynh từng kì để trao đổi vấn đề học tập của các em cho phụ huynh biết rõ đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết hợp với cha mẹ học sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá biệt, những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin thường xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
Phát huy các phong trào học theo nhóm nhỏ (những em nhà ở gần nhau).
- Đối với việc học ở lớp:
Mượn thư viện của trường: Sách, đồ dùng học tập cho những học sinh còn thiếu.
Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình thức giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị đồ dùng học tập của các em thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
Có hình thức nhắc nhở, khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em lười học và không chú ý trong giờ học.
Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với từng đối tượng học sinh để học sinh nắm bài được tốt.
Thường xuyên tổ chức cho học sinh hoạt động và thảo luận theo nhóm, tổ chức trò chơi hoặc sắm vai tuỳ theo môn học, bài học.
Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các tổ, nhóm 
hoặc giữa các cá nhân...
Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn:
- Đối với môn toán:
Khi hướng dẫn HS trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn, nắm vững kiến thức trọng tâm, trả lời hoặc làm bài tập có liên quan đến kiến thức đã học, hoàn thành bài với phép tính dễ hiểu với bước giải nhanh nhất. 
 Khi hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS nghiên cứu bài tập ở nhà trước, đọc và tập làm một số bài tập trong sách giáo khoa.
Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như: Trực quan, đàm thoại, thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các dồ dùng dạy học (ĐDDH). Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
Tạo hứng thú cho các em bằng cách: Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân, giữa các tổ, nhóm... Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng, khuyến khích tinh thần cố gắng học tập để các em lần sau thêm tự tin.
 VD: Toán : Bài phép trừ trong phạm vi 4
 Khi hướng dẫn hs thực hiện phép trừ trong phạm vi 4, để giúp hs dễ dàng hình dung ra thế nào là trừ( trừ là lấy đi, mất đi , cho đi) thì gv phải sử dụng hình ảnh trực quan: tranh ảnh hoặc thao tác trên vật thật để hs dễ dàng hình dung.
4 - 1 = 3
Hình 1: Phép trừ trong phạm vi 4
 Bài 1: Tính
4 – 1 = 4 – 2 = 3 + 1 = 1 + 2 =
3 – 1 = 3 – 2 = 4 – 3 = 3 – 1 =
2 – 1 = 4 – 3 = 4 – 1 = 3 – 2 = 
Bài này GV có thể tổ chức cho HS hoạt động nhóm 4, mỗi nhóm thực hiện một cột, nhóm trưởng hướng dẫn các thành viên trong nhóm thực hiện
Hình 2 : Hoạt động nhóm
Cuối bài, để củng cố lại bảng trừ trong phạm vi 4, giáo viên có thể tổ chức cho HS tham gia trò chơi tiếp sức. Tổ chức thành 2 đội, mỗi đội 5 hoặc 4 HS. Sau khi GV ra hiệu lệnh từng thành viên các đội tuyền tay nhau tìm kết quả . Đội nào tìm nhanh, đúng được nhiều kết quả đội đó chiến thắng
Hình 3: Trò chơi học tập” Tiếp sức”
  - Đối với môn Tiếng việt
Phân loại đối tượng học sinh theo nhóm và đặt tên nhóm khi tổ chức trò chơi( thi đọc trong nhóm). Có những bài tập phù hợp với trình độ từng nhóm học sinh để nhóm học sinh học tốt phát huy hết khả năng của mình( Đọc bài cả trang chẵn và trang lẻ), nhóm HS khác chỉ yêu cầu đọc 1 số tiếng có vần mới và 1 đoạn văn ngắn trong bài đọc.
Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh trong lớp để các em hỗ trợ nhau.
Quan tâm khích lệ học sinh, tạo cơ hội để học sinh được chủ động tích cực thông qua giờ học và thực hành. Kiểm tra thường xuyên để uốn nắn cho học sinh.
Thường xuyên kiểm tra, gần gũi các em học sinh hay mắc lỗi để động viên, khuyến khích các em, không để các em chán nản và phối hợp cùng với gia đình tìm biện pháp rèn riêng cho từng em.
Rèn kĩ năng đọc đúng, đọc thật chuẩn và chính xác bài đọc. Cho cả lớp đọc, đọc cá nhân để phát hiện lỗi sai chỉnh sửa kịp thời . Lồng ghép các trò chơi học tập trong các tiết học. Tổ chức cho các em hoạt động chuyển tiết bằng nhiều hình thức phong phú tránh mỏi mệt sau mỗi tiết học.
 VD: Học âm /gi/ - Tiếng việt CGD lớp 1
 Trong bài học vần này GV có thể sử dụng một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cho HS như sau:
Việc 0: Tiến hành bình thường
Gi 
Việc 1: Trong phần tìm tiếng mới bằng cách cho HS thay thanh, thay phụ âm đầu trong mô hình: 
GV có thể tổ chức trò chơi”Bắn tên” hoặc trò chơi” Xì điện” để HS tìm ra được nhiều tiếng mới vừa tạo không khí lớp học sôi nổi hơn, vừa rèn cho HS kĩ năng điều hành hoạt động học tập trong lớp
 Hình thức trò chơi” Bắn tên” như sau:
 Gọi 1 HS lên điều hành trò chơi, Khi HS này hô bắn tên, bắn tên cả lớp hô đồng thanh tên gì tên gì, khi đó người điều hành sẽ chỉ tên 1 bạn trong lớp, bạn đó sẽ phải đọc lên tiếng mới mà mình vừa tìm được. Ai không nêu được tiếng mới hoặc nêu sai là người thua cuộc.
Hình 4: Trò chơi” Bắn tên”
 Việc 2: Dạy viết chữ /gi/: GV có thể sử dụng phương pháp trực quan, cho HS quan sát chữ gi in thường và gi viết thường trên tranh theo mẫu chữ viết của Bộ Giáo dục, yêu cầu HS nhận xét độ cao độ rộng chữ, so sánh chữ gi in thường và gi viết thường, chữ gi viết thường có nét giống con chữ nào đã học Sau đó GV viết mẫu, hướng dẫn HS cách viết
Như vậy cùng một lúc GV đã rèn cho HS hình thành các kĩ năng (nghe,nhìn, tổng hợp, so sánh) từ đó các em ghi nhớ lâu hơn, cụ thể hơn.
 - Đối với môn còn lại:
+ Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời ngắn gọn và đúng trọng tâm.
+ Hướng dẫn học bài mới ở nhà: Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh, đọc trước bài, trả lời hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Khi giảng bài mới: Giáo viên sử dụng tích cực hoạt động nhóm, thảo luận
nhóm.Giáo viên chỉ là người tổ chức còn học sinh là người thực hiện.
+ Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách: Tổ chức học tập theo nhóm, tổ chức thi đua giữa các nhóm, tổ chức các trò chơi học tập, đóng vai sử lí tình huống.... động viên, khen thưởng kịp thời, đúng lúc.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng là cầu nối tạo nên thành công trong việc dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy. Vì nếu chỉ chuẩn bị và sử dụng tốt đồ dùng dạy học song hệ thống câu hỏi đưa ra không phù hợp thì chưa tạo được sự chú ý của các em, hiệu quả tiết học sẽ không cao và ngược lại. Làm tốt hai biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học và sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp nhưng không biết vận dụng các hình thức tổ chức dạy học và tổ chức các trò chơi học tập không linh hoạt thì giờ học sẽ không thoải mái, không hấp dẫn, không phát huy được tính tích cực của học sinh. Chính vì thế người giáo viên phải biết kết hợp hài hòa giữa các biện pháp thì tiết học sẽ diễn ra nhẹ nhàng đạt kết quả cao, các em tự giác tích cực chủ động hơn, giờ học sôi nổi hơn. Đây chính là cơ sở vững chắc nâng cao chất lượng học tập cho các em, là cơ sở để học tốt các lớp học trên. Thông qua đó các em có vốn kiến thức để vận dụng vào cuộc sống lao động hằng ngày. 
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với phương pháp dạy học mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phat_huy_tinh_tich_cuc_tu_giac_hoc_tap.doc