SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang

SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang

1. Lời giới thiệu

Tiếng Việt là tài sản vô cùng quý giá, nó không chỉ là phương tiện giao tiếp

mà còn được ví như một thứ “căn cước” của một dân tộc, là dấu hiệu nhận diện

một dân tộc, một nền văn hóa Đối với một quốc gia độc lập, ngôn ngữ được xem

là một trong ba biểu tượng của một quốc gia (cùng với quốc ca và quốc kì).

Sinh thời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng căn dặn: “Ngôn ngữ là thứ

của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó,

quý trọng nó làm cho nó phát triển ngày càng rộng khắp”. Nhà nghiên cứu văn học

Đặng Thai Mai thì cho rằng: "Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân

tộc.” Còn cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đã từng khẳng định: "Tiếng Việt của

chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu

tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam

ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của

nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý

nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn

Trãi, Nguyễn Du. và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam

đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật."

pdf 21 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 02/03/2022 Lượt xem 813Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượt qua mọi thử 
thách để phát triển như ngày nay. Tiếng Việt đã trở thành vũ khí quan trọng để dân 
tộc Việt Nam thoát khỏi mọi vòng xiềng xích nô lệ và trở thành một quốc gia độc 
lập như ngày hôm nay. Không những thế, nó còn làm nên bản sắc Việt Nam, mà 
chúng ta hay nói đến một cách tự hào với cụm từ “niềm kiêu hãnh dân tộc”. 
 Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, đã và đang xuất hiện những biến tướng, 
lai căng, tiếng Việt nhiều khi bị sử dụng một cách bừa bãi, sự trong sáng của tiếng 
2 
Việt đang bị giảm sút nghiêm trọng. Và một sự thật đáng buồn là học sinh trung 
học phổ thông - những người đã và đang được học văn hóa, được tiếp thu những 
thành tựu khoa học – lại là những người sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng nhất. 
Học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang cũng không nằm ngoài xu thế ấy. 
 Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi không khỏi trăn trở trước 
thực trạng trên. Và để chấn chỉnh, định hướng kịp thời, hướng học sinh đến cách 
thức giao tiếp có văn hóa, tôi quyết định nghiên cứu và đưa vào ứng dụng sáng 
kiến: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt 
của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang. 
2. Tên sáng kiến 
 Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt 
của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang. 
3. Tác giả sáng kiến 
 - Họ và tên: Khuất Thị Lý 
 - Địa chỉ : Trường THPT Nguyễn Thị Giang 
 - Số điện thoại: 037 387 1672; E_mail: lykhuatvt@gmail.com 
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến 
 Tác giả sáng kiến. 
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 
 Sáng kiến có thể áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Việt của giáo viên 
Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông. 
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu 
 Ngày 01/10/2018 
7. Mô tả bản chất của sáng kiến 
7.1. Nội dung sáng kiến 
7.1.1. Những biểu hiện cơ bản của việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở 
một bộ phận học sinh hiện nay 
3 
a. Xu hướng đơn giản hóa 
 - Đây là khuynh hướng phổ biến nhất. 
 - Một số kí tự học sinh thường dùng phổ biến qua nhắn tin, qua chát: 
Ngôn ngữ (gốc) Ngôn ngữ (sáng tạo) 
(cười) haha Kaka 
(cười) hihi Hjhj 
À Àh 
anh A 
Ăn cơm ăn kum 
Ba (cha) Papa 
Bà xã Vx 
bạn you, pạn 
Bé Pé 
bệnh Bịnh 
biến phiến, bín 
biết pít, pek,bk 
bình thường Bt 
buổi Bỉu 
buồn pùn, bùn 
bực mình pựx mìn 
Cái Káj 
cảm ơn Tks 
Có Koa 
con Kon 
con gái Girl 
con trai Boy 
4 
cơm Kưm 
của Kủa 
cút Kút 
cưng Kưng 
cười Kười 
chà Ckàz 
chảnh chó c2 
chào bye bye 
chắc Chắt 
chết Chjt 
chia tay Ct 
chim Chym 
chịu Ckju 
cho Choa 
chó Tró 
chồng Ck 
chúc ngủ ngon g9, chux ngủ ngon 
chuyện chiện, chyn 
chửi Ekuj 
Dạ Dzạ 
đang Dag 
đánh lộn Wuynh lộn 
đánh nhau Pk 
đâu Âu 
đẹp Chẹp 
đẹp gái chẹp gái 
5 
đẹp trai đẹp zai 
Đi Đj 
điên Đin 
điện thoại Đt 
Đó Đok 
đồng (đơn vị tiền Việt Nam k, kooo (trên game oline) 
được đk, đc 
Em E 
Em yêu i*, ey 
Ế Ếk 
ê (dùng gọi ai đó) Êt 
ghét Gket 
Gì J 
Gia kiệm (tên địa danh) Gkịm 
giận Jận 
giấy Jay 
giờ H 
giữ gìn ju jin 
hên xui hin xuj 
hiểu Hju 
học Hox 
hôm (qua) Hum 
hôn kis, hun 
Im Jm 
kia Kiêu 
kiêu Kiu 
6 
khiếp Khíp 
khóc khox, koh 
khóc hix hix 
không k, o, hok, hum 
khùng Khjn 
khùng khùng khìn khìn 
lắm k'm, lém 
Lấy Lax 
luôn Juôn 
Mà Mòa 
Mẹ mama, mọe 
mình Mìk 
muốn Mún 
Nè Nak 
Nó Nóa 
nói chuyện nc, pm, nói chỵn 
nghe Nge 
nghĩ Ghĩ 
nha Heng 
nhắn tin tn 
nhiều nhju, nhiù 
nhờ Nhok 
nhớ Miss 
như thế nào Ntn 
ông xã Ôx 
ơi Ui 
7 
phòng trọ Pt 
phúc Pux 
qua Wa 
quá góa, wa 
quen Wen 
quê Wế 
quên Wên 
quyển sách wyen sak 
Rồi ùi, gòi, rùi, rùj, roj 
sao Seo 
sặc Sặx 
Sốt (đang là chủ điểm) Hót 
sớm Súm 
tạm biệt pp. pipi 
Tao Kao 
tiền lúa, máu, tìn 
tình cảm Tc 
tình yêu t/ju 
Tôi Tui 
thằng Thèng 
Thì Tky 
thích Thik 
thích thít, thick 
thôi thoj, thui 
thương Xương 
trong Trog 
8 
trời Chaj 
trước trướk, trc 
uống nước un nc 
Ừ uk, ừa 
vẫn Zẫn 
vậy zậy, z, vz 
Yêu iu 
b. Xu hướng phức tạp hóa 
 - Xu hướng này tuy không phát triển mạnh mẽ như xu hướng thứ nhất 
nhưng nó vẫn tồn tại như một cách để thể hiện sự khác biệt “sành điệu”của giới 
trẻ. Trong xu hướng phức tạp hóa, một trong những nét đặc trưng cần phải nhấn 
mạnh đó là cách thể hiện, trình bày nội dung văn bản. Với mong muốn được thể 
hiện, khẳng định bản thân (do tâm lý lứa tuổi) xu hướng này vì thế, càng được 
phát huy mạnh mẽ. 
 - Sự phức tạp trước hết được thể hiện thông qua hàng loạt các biểu đạt tình 
cảm đi kèm. 
Ví dụ: 
 :(( buồn 
 :) cười 
 :))))) rất buồn cười. 
 - Sự phức tạp còn được thể hiện trong cách trình bày cầu kỳ. 
Ví dụ: 
 “ThiẾu zẮng a e hUmz thỂ shỐng thÊm 1 fÚt jÂy nÀo nỮa” 
(Thiếu vắng anh, em không thể sống thêm một phút giây nào nữa). 
c. Xu hướng tạo ra những lời nói cố định 
 Những câu giới trẻ hay sử dụng là: 
Chảnh như con chó cảnh 
9 
Chán như con gián 
Chuyện nhỏ như con thỏ 
Biết chết liền 
Đã xấu còn xa, đã si đa còn xông pha hiến máu 
Bó tay chấm cơm 
Bó tay con gà quay 
Bực như con mực 
Ăn trông nồi ngồi trông xó 
Cái khó ló cái ngu 
Buồn như con chuồn chuồn 
Đen như con mèo hen 
Đẹp trai có gì là sai 
Đói như con sói 
Dở hơi tập bơi 
Không mày đố thầy dạy ai 
Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ 
Một điều nhịn là chín điều nhục 
Ngu như con bò thích hát hò 
Xấu như con gấu 
Yêu là phải nói như đói là phải ăn 
Ngất trên cành quất 
Xấu nhưng biết phấn đấu 
 Nếu xét về nội dung ta thấy có một số câu phù hợp với cách lí giải của tuổi 
teen là nói cho vui, Xấu như con gấu; Đói như con sói; Chuyện nhỏ như con thỏ; 
Chán như con gián; Chảnh như con chó cảnh. Nhưng ta còn nhận thấy bên cạnh 
những câu nói có thể chấp nhận được còn là những câu nói dựa vào thành ngữ gốc 
mà biến đổi, làm mất hết ý nghĩa của thành ngữ và nó mang lại một thông tin sai 
10 
lệch hoàn toàn với thành ngữ ban đầu mà người Việt sử dụng Không mày đố thầy 
dạy ai; Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ; Một điều nhịn là chín điều 
nhục; Ăn trông nồi ngồi trông xó. Và khi những câu nói quen thuộc này được giới 
tuổi teen sử dụng để giao tiếp với người lớn. Giáo viên chúng ta cũng từng là nạn 
nhân của những câu nói trên khi đôi lần hỏi bài học sinh trả lời trống không “biết 
chết liền” đây là những tình huống nằm ngoài ý muốn của người đứng lớp. 
 - Những lời nói cố định như vậy được sử dụng rất rộng rãi: 
11 
12 
d. Hiện tượng nói tục 
 Các từ thường trực ở cửa miệng của nhiều học trò mà ta thường xuyên thấy 
qua các tin nhắn trên Facebook: “Đ.M”, “vl”, đcm,  Điều này làm xấu đi hình 
ảnh tiếng Việt rất vốn rất giàu và đẹp. 
e. Hiện tượng sử dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện 
 Việc sử dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện là vấn đề nhức nhối. Ngay từ năm 
1925, nhà báo Nguyễn An Ninh đã trăn trở: 
Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng 
cho mạch lạc bằng tiếng nước mình. Hình như đối với họ, việc sử dụng Pháp ngữ 
là một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc, cũng như sử dụng nước suối Pe – ri – ê 
(Perrier) và rượu khai vị biểu trưng cho nền văn minh châu Âu. Nhiểu người An 
Nam bị Tây hóa hiện nay tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của 
phong hóa châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo 
theo kiểu Tây phương. 
Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu như thế không nên làm chúng ta ngạc 
nhiên. Vì chỉ có những người đã hiểu biết vững một nền văn hóa rồi mới có khả 
năng thưởng thức một nền văn hóa ngoại bang. Những kiểu kiên trúc và trang trí 
lai căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái 
mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người 
ở An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào. Việc từ bỏ văn hóa cha 
ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng. 
(Trích “Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” – Nguyễn An Ninh) 
Vấn đề này đã từng được Trần Đức Nguyên - Trần Việt Phương đề cập đến 
trên báo điện tử Vietnamnet ngày 03/03/2007: 
Dạo này, dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và 
viết tiếng Việt thường chen tiếng mrớc ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Hồi nước ta 
còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng đã khá phổ biến và được gọi 
13 
là nói “tiếng lai”. 
Phải nhận rằng, trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và còng nghệ, nhất 
là của tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời, mà do chưa kịp 
có từ tương ứng trong tiếng Việt, nên buộc phải dùng thuật ngữ bằng tiếng nước 
ngoài khi nói cũng như khi viết. 
Song điều đáng nói là, đang có nhiều người cứ thích nói bằng tiếng Anh 
những từ hoàn toàn có thế diễn đạt được bằng tiếng Việt, và hãnh diện coi đó là 
thời thượng, là “sành điệu ”. 
Tiếng Việt, ngôn ngữ của dân tộc, không chỉ là biểu hiện của vẻ đẹp truyền 
thống cũng như sự hiện đại hóa về tư duy của con người, của đất nước, mà còn 
khẳng định vị thế của văn hóa Việt Nam. Vậy mà việc sử dụng thứ ngôn ngữ được 
coi là tiếng Việt, nhưng không có trong từ điển tiếng Việt, của các bạn trẻ hiện nay 
đang là trào lưu nổ rộ. Đó là cách các bạn trẻ thể hiện phong cách? Có lẽ đúng hơn 
là một sự lai căng, biến tướng tiếng mẹ đẻ, và đó là vấn đề đáng lên án và cần phải 
loại trừ.Việc xen kẽ những từ ngữ nước ngoài không còn quá xa lạ trong những 
mẩu đối thoại hằng ngày của giới trẻ. 
Ví dụ: 
- Ngày Valentine, cậu định mua quà gi tặng người yêu? 
- Mai nhớ mang laptop nhé! 
- Có gì cứ call cho tôi. 
- Hello bạn 
7.1.2. Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở 
một bộ phận học sinh hiện nay 
a. Nguyên nhân khách quan 
 - Xã hội ngày càng phát triển, lối sống phương Tây ồ ạt tràn vào Việt Nam. 
Giới trẻ là những người nhạy bén nhất. Họ học tập, sáng tạo, áp dụng và làm ra 
cái mới để thể hiện mình. Tuy nhiên, vì còn trẻ nên các em chưa khẳng định được 
14 
việc thể hiện mình như vậy là đúng hay sai, các em muốn thay đổi nhưng chưa 
biết cách thay đổi như thế nào cho phù hợp. 
 - Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế đó là trong chính 
tả của Tiếng Việt vẫn còn tồn tại sự bất hợp lý khi sử dụng nhiều ký hiệu để biểu 
thị cùng một âm vị: K,Q, C cùng để biểu thị âm vị / K/; hay Z, d, gi cùng để biểu 
thị âm /z/.v.v. 
b. Nguyên nhân chủ quan 
 - Thứ nhất: do sự giảm sút tình yêu tiếng Việt, ý thức giữ gìn và bảo vệ sự 
trong sáng của tiếng Việt không được coi trọng 
 - Thứ hai: do xu hướng lai căng, xính ngoại, thích “hiện đại”, thích được thể 
hiện cá tính của giới trẻ. Tâm lý “thích sành điệu, thích được xem là dân chơi” của 
đa phần giới trẻ. 
 - Thứ ba: do sự thiếu hụt những tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và 
tiếng Việt nói riêng 
 - Thứ tư: do cách giao tiếp, ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận không 
nhỏ học sinh như: nói tục, chửi bậy, dùng từ, đặt câu không đúng nghĩa, không 
phù hợp với hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp ... 
 - Thứ năm: do việc tiếp xúc thường xuyên với cách sử dụng ngôn ngữ một 
cách tùy tiện của những bài viết không chuẩn mực trên mạng... 
7.1.3. Giải pháp khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở 
một bộ phận học sinh hiện nay 
 Từ những thực trạng và nguyên nhân sử dụng tiếng Việt như trên, là giáo 
viên giảng dạy Ngữ văn, tôi xin được đưa ra một số giải pháp nhằm giữ gìn sự 
trong sáng của tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay như sau: 
a. Giáo dục cho học sinh ý thức quý trọng tiếng Việt 
Mỗi âm thanh, từ ngữ, quy tắc trong tiếng Việt là di sản quý báu của ông cha 
để lại. Di sản đó giúp mọi người hiểu biết, có nhân cách, nuôi dưỡng cho dân tộc 
15 
trường tồn, phát triển. Muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần có tình yêu 
sâu sắc, quý trọng di sản của cha ông, phải quý trọng tiếng nói của dân tộc như 
những tấc đất ở biên thùy. 
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên Ngữ văn cần phân tích cho học sinh 
thấy được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt; lồng ghép giáo dục tình yêu tiếng Việt 
qua các ngữ liệu trong phần đọc – hiểu. Từ đó, hình thành trong các em ý thức quý 
trọng tiếng Việt. 
b. Cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt 
Giáo viên cần cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt. 
Đó là những hiểu biết về chuẩn mực và quy tắc tiếng Việt trong các phát âm, chữ 
viết, cách dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản, giao tiếp có thể tích lũy kinh nghiệm 
từ thực tế giao tiếp hay trau dồi qua sách báo nhưng vẫn tuân thủ quy tắc của tiếng 
Việt. 
c. Giáo dục cho học sinh trách nhiệm cá nhân trong hoạt động sử dụng tiếng 
Việt 
- Giáo viên giáo dục học sinh trách nhiệm cá nhân trong hoạt động sử dụng 
tiếng Việt: 
+ Muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần diễn đạt đủ, đúng và chuẩn 
mực và quy tắc trong tiếng Việt, chuẩn mực không phủ nhận những sự chuyển đổi 
linh hoạt và sáng tạo, không phủ nhận cái mới. Tuy nhiên sáng tạo không nên sai 
quy tắc của câu, cái mới luôn cần phải phù hợp với quy tắc chung, những điều đó 
tạo nên sự phong phú cho tiếng Việt. 
+ Bên cạnh việc giữ những phẩm chất đẹp đẽ của tiếng Việt cần dung nạp 
những yếu tố tích cực để tăng thêm từ vựng và phong phú trong ngữ pháp của tiếng 
Việt. 
+ Trong tiếng Việt cần quan tâm tới nhiều yếu tố trong đó văn hóa và cách 
ăn nói lịch sự cần phải được quan tâm hàng đầu để có thể giữ gìn sự trong sáng của 
16 
tiếng Việt. Sự trong sáng của tiếng Việt được thể hiện ở những biểu hiện và các 
phương diện khác nhau, đó là tính chuẩn mực, có quy tắc của tiếng Việt, đó là sự 
không lai căng, pha tạp và tính lịch sự, văn hóa của lời nói Trong những hoạt 
động sử dụng tiếng Việt có thể áp dụng sáng tạo riêng nhưng vẫn phải tuân theo 
quy tắc chung của tiếng Việt, cần tránh những các thể hiện thô tục, kệch cỡm để lời 
nói vừa đúng, vừa hay, vừa có văn hóa. 
 + Giáo viên Ngữ văn có thể xây dựng thành những đề văn nghị luận xã hội 
về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ của chính học sinh. Từ đó các em được trình bày 
sự hiểu biết và những suy nghĩ của bản thân về việc sử dụng tiếng Việt của chính 
mình. 
Ví dụ 1: 
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4: 
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói 
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ 
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa 
Óng tre ngà và mềm mại như tơ 
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát 
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh 
Như gió nước không thể nào nắm bắt 
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh 
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy 
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn 
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối 
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường 
17 
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng 
 Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta 
Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đã mất 
Nàng Mị Châu quỳ xuống lạy cha già. 
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng 
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi 
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán 
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời. 
(Trích Tiếng Việt - Lưu Quang Vũ, Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Giáo dục, 1985, 
tr.218) 
Câu 1. Sự mượt mà và tinh tế của tiếng Việt được thể hiện ở những từ ngữ nào 
trong khổ thơ thứ nhất? 
Câu 2. Kể tên hai biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ thứ hai và thứ ba. 
Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn trích. 
Câu 4. Từ đoạn trích, anh/chị hãy bày tỏ cảm nghĩ của mình về tiếng 
Việt. 
Ví dụ 2: 
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: 
(1) Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói 
thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, 
thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có 
nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khá năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của 
người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua 
các thời kì lịch sử. 
(2) Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó, thật sự có những đặc sắc của một thứ tiếng 
khá đẹp. Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của 
18 
quần chúng nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu 
chất nhạc. Họ không hiểu tiếng ta, và đó là một ấn tượng, ấn tượng của người 
“nghe” và chỉ nghe thôi. Tuy vậy lời bình phẩm của họ có phần chắc không phải 
chỉ là một lời khen xã giao. Những nhân chứng có đủ thẩm quyền hơn về mặt này 
cũng không hiếm. Một giáo sĩ nước ngoài (chúng ta biết rằng nhiều nhà truyền đạo 
Thiên Chúa nước ngoài cũng là người rất thạo tiếng Việt), đã có thể nói đến tiếng 
Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển 
trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”. 
(Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, trong 
Tuyến tập Đặng Thai Mai, Tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1984). 
Câu 1: Chọn ra câu chủ đề của đoạn trích trên? . 
Câu 2: Đoạn trích trên được viết bằng phương thức biểu đạt nào? . 
Câu 3: Đoạn (2) có những phép liên kết nào? Nêu tác dụng của các phép liên kết 
đó trong việc thể hiện nội dung chủ đạo của đoạn văn. . 
Câu 4: Trong khoảng 5-7 dòng, hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về việc giữ 
gìn sự giàu đẹp của tiếng Việt của bộ phận giới trẻ hiện nay. 
Ví dụ 3: 
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: 
"... Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu 
tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam 
hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn 
để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu 
Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An 
Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hi vọng 
giải phóng giống nòi [...] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, choi từ tiếng mẹ 
đẻ đồng nghĩa với từ chổi sự tự do của mình..." 
(Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Theo 
19 
Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2014, tr. 90) 
Câu 1. Hãy xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích trên. 
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? 
Câu 3. Theo tác giả, tiếng nói có tầm quan trọng như thể nào đối với vận mệnh của 
dân tộc? 
Câu 4. Từ đoạn trích, anh/chị hãy nêu quan điểm của mình về vai trò của tiếng 
nói dân tộc trong bối cảnh hiện nay.+ Phát hiện lỗi sử dụng trong giao tiếp, trong 
bài kiểm tra của học sinh, khoanh tròn sửa lỗi đặc biệt những lỗi sai do cố tình sử 
dụng sai cách dùng từ như hiện nay. Trừ điểm thành phần bài kiểm tra đối với 
trường hợp sai nhiều lần. Giáo viên Văn nên có bảng thống kê bài kiểm tra các lỗi 
sai kể cả sai chính tả để xem mức độ thay đổi. Ví dụ: 
HỌ VÀ TÊN 
SỐ LỖI CHÍNH TẢ, CÁCH DÙNG TỪ 
BÀI SỐ 1 BÀI SỐ 2 BÀI SỐ 3 BÀI SỐ 4 
NGUYỄN VĂN A 
NGUYỄN VĂN B 
 + Giáo viên cũng có thể cho học sinh rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt 
qua việc đưa ra các bài tập yêu cầu học sinh phát hiện, mô tả lỗi và sửa lỗi trong 
một số văn bản chưa chuẩn mực. 
d. Xây dựng trong nhà trường phong trào giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt 
 - Việc giáo dục cần bắt nguồn từ thực tế, từ những câu chuyện, những tình 
huống thật xảy ra trong cuộc sống. Thầy cô - những người có ảnh hưởng trực tiếp 
đến các bạn trẻ, những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ 
của mình cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. 
 - Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay 
chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh. 
 - Nhà trường và Đoàn thanh niên cần có những buổi sinh hoạt ngoại khóa 
về vấn đề sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn. 
20 
7.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến 
 Sáng kiến hoàn toàn có thể áp dụng trong thực tế giảng dạy của tất cả các 
giáo viên, đặc biệt là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn. 
8. Những thông tin cần được bảo mật 
Không. 
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 
 - Giáo viên phải nắm chắc những quy tắc sử dụng tiếng Việt; nói và viết 
theo chuẩn để làm gương cho học sinh; ch

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_nhan_thuc_va_ki_nang_su.pdf