SKKN Một số biện pháp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua môn Khoa học Lớp 4 và các hoạt động ngoại khoá

SKKN Một số biện pháp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua môn Khoa học Lớp 4 và các hoạt động ngoại khoá

 Các biện pháp thực hiện:

- Giáo dục về môi trường thông qua các hoạt động cụ thể, thiết thực: Hướng dẫn học sinh đi tiêu, đi tiểu đúng nơi quy định tránh làm ô nhiễm môi trường đất, không ảnh hưởng đến môi trường chung. Giáo viên hướng dẫn các em nữ đi vào phòng vệ sinh nữ, nam đi vào phòng vệ sinh nam; khi vệ sinh xong phải biết dùng nước giội sạch sẽ, không bỏ giấy cứng vào bồn cầu mà nên dùng loại giấy thấm bằng cuộn. Rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn. Ở mỗi lớp đều có thau nước, xà bông cho học sinh rửa tay, có khăn lau tay khi làm vệ sinh, không đi chân đất khi đến lớp, lúc ra chơi cũng như lúc ở nhà. Không ăn quà vặt, không uống các loại nước đủ màu sắc bán ở các vỉa hè, thông qua toàn chương “Con người và sức khỏe” từ trang 3 sách giáo khoa lớp bốn cho học sinh.

- Cho học sinh xem tranh trong sách giáo khoa thông qua bài học “Ăn nhiều rau quả chín, sử dụng thực phẩm sạch và an toàn” giúp học sinh nhận thấy được đặc điểm, chất lượng của thực phẩm sạch và an toàn là nó giữ được chất dinh dưỡng, nuôi trồng và chế biến hợp vệ sinh, không bị nhiễm khuẩn, không gây hại cho cơ thể. Trong tiết dạy này giáo viên đem một số vật thật như: Một vài loại trái cây chín, vài bó rau cải hoặc rau muống đến lớp. Cho các em nhận ra được các em nên chọn mua để dùng trái cây nào, bó rau nào trong các loại trái cây và rau trên. Từ đó các em nêu được ý kiến chọn mua và biết lý do em chọn để mua, như vậy là các em đã biết áp dụng cách sử dụng thực phẩm sạch, an toàn. Các em biết vận dụng kiến thức của bài học này để tuyên truyền cho ba, mẹ và những người quanh xóm mình cần cố gắng nuôi trồng, bảo quản, chế biến thực phẩm hợp vệ sinh và an toàn để dùng, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng lá cho rau xanh, trái cây mà mình trồng tại vườn nhà. Làm như vậy là hợp vệ sinh và an toàn cho thực phẩm, đảm bảo sức khỏe cho con người.

- Qua bài “Một số cách bảo quản thức ăn” trang 4 sách giáo khoa. Học sinh biết được cách bảo quản thức ăn để sử dụng được nhiều ngày mà không ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhằm áp dụng ở gia đình mình như phơi khô, sấy, nướng, đóng hộp, ướp muối, Làm như vậy là tiêu diệt được vi khuẩn, vi sinh vật không gây hại cho cơ thể. Đồng thời các em nhận thức được quà vặt bày bán ở lề đường, cổng trường, luôn có bụi bặm, ruồi nhặng bám vào, do môi trường xung quanh đó không hợp vệ sinh nếu ăn vào rất dễ mắc một số bệnh về đường tiêu hóa như: tiêu chảy, tả, lỵ, các em còn biết được không nên uống nước lã, không nên ăn quà vặt trên đường đi đến lớp, giờ ra chơi, rửa tay sạch sẽ sau khi tiểu tiện, trước khi ăn.

- Giúp học sinh phòng tránh một số bệnh tật qua bài học “Nước bị ô nhiễm” trang 5 sách giáo khoa, học sinh thấy được môi trường xung quanh bị ô nhiễm có ảnh hưởng đến nguồn nước, nước bị bẩn, có mùi hôi sẽ là nơi trú ngụ và sinh sản của các vi sinh vật, ruồi, muỗi, đây là những con vật trung gian truyền bệnh rất nguy hiểm cho con người như: tả, dịch hạch, tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết, Từ đó học sinh hiểu được nguyên nhân nào làm nguồn nước bị ô nhiễm.

 

doc 22 trang Người đăng Bằng Khánh Ngày đăng 08/01/2025 Lượt xem 87Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua môn Khoa học Lớp 4 và các hoạt động ngoại khoá", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a môn Khoa học lớp 4 và các Hoạt động ngoại khoá.
2.1. Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua môn Khoa học lớp 4.
Trong những năm gần đây, ở bậc tiểu học nói chung và tại Trường tiểu học Chấn Hưng nói riêng, nội dung giáo dục môi trường đã được đưa vào dạy lồng ghép trong các môn học như: Khoa học, Tự nhiên - Xã hội, Đạo đức, Tiếng Việt. Bản thân tôi đã tham gia đầy đủ các chuyên đề do Phòng giáo dục cũng như trường tố chức, tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, soạn bài lựa chọn nội dung kiến thức, phương pháp giảng dạy thật phù hợp với yêu cầu lồng ghép cho từng môn học, bài học cụ thể, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trên phương châm “chính xác, phù hợp, không gượng ép, có hiệu quả cao”.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, phụ trách lớp, qua thực tiễn trên tôi suy nghĩ cần phải có những biện pháp nhằm góp phần giáo dục môi trường cho học sinh lớp thông qua bộ môn Khoa học như đề tài đã nêu trên được kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành qua các bài học.
* Những việc cần thực hiện:
- Trong từng bài dạy của môn Khoa học cần lồng ghép các kiến thức có liên quan đến vấn đề môi trường để cho các em biết cách bảo vệ môi trường là các em đã có kĩ năng sống thông qua những việc làm cụ thể.
- Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ngoài giờ lên lớp bằng nhiều hình thức để tạo hứng thú học tập giúp học sinh nhớ lâu, có được hành động đúng.
- Góp phần nâng cao nhận thức bảo vệ bản thân và bảo vệ môi trường ở cộng đồng.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học, công trình măng non của lớp và khu vực vệ sinh của lớp được phân công cụ thể trong năm học để kịp thời uốn nắn và giáo dục cho học sinh.
* Các biện pháp thực hiện:
- Giáo dục về môi trường thông qua các hoạt động cụ thể, thiết thực: Hướng dẫn học sinh đi tiêu, đi tiểu đúng nơi quy định tránh làm ô nhiễm môi trường đất, không ảnh hưởng đến môi trường chung. Giáo viên hướng dẫn các em nữ đi vào phòng vệ sinh nữ, nam đi vào phòng vệ sinh nam; khi vệ sinh xong phải biết dùng nước giội sạch sẽ, không bỏ giấy cứng vào bồn cầu mà nên dùng loại giấy thấm bằng cuộn. Rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn. Ở mỗi lớp đều có thau nước, xà bông cho học sinh rửa tay, có khăn lau tay khi làm vệ sinh, không đi chân đất khi đến lớp, lúc ra chơi cũng như lúc ở nhà. Không ăn quà vặt, không uống các loại nước đủ màu sắc bán ở các vỉa hè,  thông qua toàn chương “Con người và sức khỏe” từ trang 3 sách giáo khoa lớp bốn cho học sinh.
- Cho học sinh xem tranh trong sách giáo khoa thông qua bài học “Ăn nhiều rau quả chín, sử dụng thực phẩm sạch và an toàn” giúp học sinh nhận thấy được đặc điểm, chất lượng của thực phẩm sạch và an toàn là nó giữ được chất dinh dưỡng, nuôi trồng và chế biến hợp vệ sinh, không bị nhiễm khuẩn, không gây hại cho cơ thể. Trong tiết dạy này giáo viên đem một số vật thật như: Một vài loại trái cây chín, vài bó rau cải hoặc rau muống đến lớp. Cho các em nhận ra được các em nên chọn mua để dùng trái cây nào, bó rau nào trong các loại trái cây và rau trên. Từ đó các em nêu được ý kiến chọn mua và biết lý do em chọn để mua, như vậy là các em đã biết áp dụng cách sử dụng thực phẩm sạch, an toàn. Các em biết vận dụng kiến thức của bài học này để tuyên truyền cho ba, mẹ và những người quanh xóm mình cần cố gắng nuôi trồng, bảo quản, chế biến thực phẩm hợp vệ sinh và an toàn để dùng, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng lá cho rau xanh, trái cây mà mình trồng tại vườn nhà. Làm như vậy là hợp vệ sinh và an toàn cho thực phẩm, đảm bảo sức khỏe cho con người.
- Qua bài “Một số cách bảo quản thức ăn” trang 4 sách giáo khoa. Học sinh biết được cách bảo quản thức ăn để sử dụng được nhiều ngày mà không ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhằm áp dụng ở gia đình mình như phơi khô, sấy, nướng, đóng hộp, ướp muối, Làm như vậy là tiêu diệt được vi khuẩn, vi sinh vật không gây hại cho cơ thể. Đồng thời các em nhận thức được quà vặt bày bán ở lề đường, cổng trường,  luôn có bụi bặm, ruồi nhặng bám vào, do môi trường xung quanh đó không hợp vệ sinh nếu ăn vào rất dễ mắc một số bệnh về đường tiêu hóa như: tiêu chảy, tả, lỵ, các em còn biết được không nên uống nước lã, không nên ăn quà vặt trên đường đi đến lớp, giờ ra chơi, rửa tay sạch sẽ sau khi tiểu tiện, trước khi ăn.
- Giúp học sinh phòng tránh một số bệnh tật qua bài học “Nước bị ô nhiễm” trang 5 sách giáo khoa, học sinh thấy được môi trường xung quanh bị ô nhiễm có ảnh hưởng đến nguồn nước, nước bị bẩn, có mùi hôi sẽ là nơi trú ngụ và sinh sản của các vi sinh vật, ruồi, muỗi,  đây là những con vật trung gian truyền bệnh rất nguy hiểm cho con người như: tả, dịch hạch, tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết,  Từ đó học sinh hiểu được nguyên nhân nào làm nguồn nước bị ô nhiễm. 
- Qua bài học “Nguyên nhân nguồn nước bị ô nhiễm” trang 54 sách giáo khoa, học sinh thấy được khi nguồn nước bị bẩn thì dẫn đến nước bị ô nhiểm người sử dụng bị mắc bệnh ngoài da như: ghẻ lở, hắc lào, lang ben, một số bệnh nặng hơn độc hại cho cơ thể có thể dẫn đến tử vong. 
Qua hai bài học trên, giáo dục cho các em cần chú ý không xả rác bừa bãi, không đổ rác xuống ao, hồ, sông, suối; thường xuyên nhắc nhở các bạn trong tổ, trong lớp, cần phải bỏ rác vào giỏ đã quy định và mang đi đổ vào hố rác. Không phóng ẩu bừa bãi mà cần đi đúng nơi quy định ở trường học. Ở gia đình các em cần có ý kiến với ba, mẹ và những người xung quanh xóm chú ý hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt mầm ở ruộng lúa, vườn cây; nếu có sử dụng thì phải gom vỏ chai, bao bọc của các loại thuốc đó về một nơi quy định để đào hố chôn hoặc xử lý đúng cách; xác chết của động vật không nên bỏ ra trên mặt đất, trên đường đi gây mùi hôi. Nhà xí, chuồng nuôi gia súc phải đặt nơi cách xa nguồn nước sử dụng. Thực hiện được những việc làm trên không những làm sạch môi trường mà còn hạn chế được nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Ở lớp có tuyên dương những cá nhân, tổ thực hiện tốt việc làm này vào cuối tuần và có thể khen thưởng vào tuần cuối cùng của tháng.
Lồng ghép giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và kĩ năng sống thực tế qua các môn học có liên quan đến tự nhiên xã hội để học sinh thấy được lợi ích trồng cây xanh, trồng rừng, bảo vệ rừng, chăm sóc cây là biện pháp tích cực để nhằm tạo ra và giữ được bầu không khí trong lành cho môi trường.
2.2. Giáo dục môi trường ngoài giờ lên lớp:
Mục tiêu của giáo dục môi trường ngoài giờ lên lớp nhằm hình thành và phát triển kỹ năng hành động trong môi trường của học sinh. Từ đó tạo nên một lối sống có trách nhiệm, thân thiện với tự nhiên.
a. Tổ chức các trò chơi: Trò chơi “Người bạn của môi trường” giúp học sinh phân biệt được hoạt động bảo vệ môi trường và hoạt động phá hoại môi trường. Thấy được nguồn gốc của rác thải và tác hại của việc thải rác ra môi trường sống.
* Thông qua các bài tập, như:
Bài tập 1: Tô màu vào ô trống trước các hành động. Hành động thân thiện với tự nhiên tô màu xanh, không thân thiện tô màu đỏ.
Tôi bỏ giấy kẹo vào thùng rác.
Tôi không thích mọi người hút thuốc.
Những con vật chết tôi đem ra sông vứt cho nước cuốn trôi đi.
Tôi thích trồng hoa trước sân nhà. Tôi vứt rác trên hè phố.
 Bài tập 2: Xác định đâu là hành động thân thiện, đâu là hành động chưa thân thiện trong những hành động sau rồi ghi vào bảng:
- Tôi thích đi bộ trong rừng.
- Tôi thích sử dụng xe máy.
- Tôi vứt rác bất cứ chỗ nào.
- Tôi thích bẻ cành cây để chơi.
- Tôi thích đi săn.
- Tôi thích sự yên tĩnh.
- Tôi thích nghe nhạc.
- Tôi thích trồng cây.
- Tôi thích chăm sóc cây.
Hành động thân thiện
Hành động chưa thân thiện
- 
- 
- 
- 





Bài tập 3: Tập làm lãnh đạo:
Nếu tôi là lãnh đạo, tôi sẽ đưa ra những quyết định cụ thể nào để bảo vệ môi trường ?
Thu gom rác đổ đúng nơi quy định.
Không vứt rác bừa bãi.
Tham gia tổng vệ sinh đường làng, khối phố sạch đẹp.
Quét dọn, giữ gìn nhà vệ sinh sạch sẽ.
Quét dọn nhà cửa, lớp học hàng ngày.
Ăn sạch, uống sạch, ở sạch.
* Thông qua “Trò chơi đóng vai”:
Thông qua câu chuyện kể : Câu chuyện “Người đi săn và con vượn” (Theo Lép-tônxtôi). Qua câu chuyện nhằm nâng cao nhận thức về môi trường, giúp cho học sinh có ý thức đạo đức về bảo vệ môi trường, biết yêu quý và thân thiện với các con vật xung quanh.
* Thông qua các bài hát về môi trường: Nhằm tạo hứng thú cho học sinh học tốt bộ môn Khoa học, cứ mỗi tháng cho các em nghe và tập một bài hát về chủ đề môi trường như: “Thế giới chung bài ca màu xanh” (nhạc và lời của Phan Phước Liên); “Lời cảnh báo xanh” (Nhạc và lời của Ngô Quốc Tính); “Ước mơ môi trường trong xanh mãi” (Nhạc và lời của Trương Xuân Thọ). 
Tổ chức thực hành:
Học sinh được tham gia các hoạt động:
- Lao động dọn vệ sinh ở lớp, trường hàng ngày, hàng tuần.
- Chăm sóc, bảo vệ công trình măng non của Chi đội mình “Chăm sóc cây” 
- Nhặt rác toàn bộ khu vực trường, lớp, khi làm nhiệm vụ trực tuần.
- Tham gia viết đoạn văn nói về tấm gương tham gia bảo vệ môi trường.
- Thi vẽ tranh tuyên truyền bảo vệ môi trường.
3. Phối hợp giáo dục môi trường với giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. 
Mục đích: Hình thành, phát triển và rèn luyện hành vi, thói quen, thái độ đúng trong bảo vệ môi trường.
Năm học 2016-2017 toàn ngành tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng “Trường học thân thiện - Học sinh tích cực”. Hơn lúc nào hết, việc giáo dục cho học sinh có những hiểu biết về môi trường và hình thành ở các em ý thức, kĩ năng về bảo vệ môi trường trong lúc này là vô cùng cần thiết. Đó cũng là một trong những nội dung không thể thiếu trong kế hoạch xây dựng “Trường học thân thiện - Học sinh tích cực” đang được triển khai.
Giáo dục môi trường phải đi đôi với giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Hiệu quả giáo dục môi trường muốn bền vững thì phải hình thành cho các em những thói quen tốt, những kỹ năng sống liên quan đến bảo vệ môi trường. Chẳng hạn chúng ta rèn các em thói quen đổ rác thải đúng nơi quy định không phải bằng khẩu hiệu hay lời khuyên mà quy định bắt buộc mỗi lớp học phải có một giỏ đựng rác và giấy loại đặt ở góc lớp. Học sinh phải bỏ rác và giấy

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_y_thuc_bao_ve_moi_truong_cho.doc