Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ năng sống cho các em, đó là các kỹ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,. được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ, trong tiết Kể chuyện, giáo viên yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện cho cả lớp nghe, giúp học sinh rèn kĩ năng giao tiếp trước đám đông, mạnh dạn và tự tin, nói năng ngày càng lưu loát hơn. Khi kể xong, giáo viên mời các bạn nhận xét, trao đổi về nội dung ý nghĩa câu chuyện, nhận xét về tính cách của các nhân vật trong truyện, giúp các em tạo cảm giác tự tin khi trao đổi một vấn đề, cách giải quyết một vấn đề có hiệu quả nhất.
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Cần sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, học sinh sẽ được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn
ệc tích hợp, lồng ghép, tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Sự kết hợp, hỗ trợ kịp thời của đội, của ban thi đua trong nhà trường. Sự quan tâm từ phía chính quyền địa phương. Một số học sinh có kỹ năng sống khá tốt, ngoan ngoãn, lễ phép, tự tin, tích cực trong học tập và rèn luyện, luôn đi đầu trong các phong trào của lớp. Ngoài ra các em còn nhỏ nên dễ dàng uốn nắn, rèn luyện kỹ năng sống. Một số bậc phụ huynh cũng đã dần quan tâm hơn tới việc giáo dục kỹ năng sống cho con em mình. b. Khó khăn Như chúng ta đã biết học sinh bậc tiểu học nói chung và học sinh trường tiểu học Dray Sáp nói riêng mà đặc thù trường lại nằm trên địa bàn kinh tế khó khăn với hơn 60% học sinh là học sinh dân tộc thiểu số Ê-đê, Mnông nên kĩ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế. Qua điều tra cho thấy: - Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, còn rụt rè, ngại giao tiếp, thiếu hợp tác. Khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau, hay nói tục, chửi bậy... - Một số giáo viên cảm thấy rất khó khăn khi lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vào giờ học, bối rối không biết phải giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ra làm sao, lồng ghép vào khi nào và lồng ghép như thế nào cho hợp lí. Ngay cả một số giáo viên cũng chưa có kỹ năng sống tốt để áp dụng vào cuộc sống thì việc vận dụng các phương pháp giáo dục kỹ năng sống để truyền đạt nội dung tới các em học sinh lại càng khó khăn. Một số giáo viên dạy thay, chuyên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động dẫn đến làm mất sự hứng thú của học sinh. - Trường nằm trong địa bàn kinh tế khó khăn. Đa số người dân làm nghề nông. Một số học sinh phải ở nhà với ông bà vì bố mẹ đi làm ăn xa. Đa số các gia đình chưa quan tâm tới việc học, giáo dục kỹ năng sống cho con em. Bên cạnh đó một số gia đình lại bảo bọc, nuông chiều con thái quá dẫn đến trẻ nhút nhát, lười biếng, ngang ngạnh,thiếu kỹ năng tự phục vụ bản thân cơ bản nhất. Một số cha mẹ học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình. Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm. Đây chính là điều kiện tốt để các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các em nếu không có sự quản lý tốt của nhà trường - gia đình - xã hội. Qua quá trình quan sát, theo dõi, tiến hành khảo sát một số biểu hiện kỹ năng sống cơ bản của học sinh lớp 4A đầu năm học 2016 - 2017 thu được kết quả như sau: Khảo sát qua điều tra học sinh – Cha mẹ học sinh Tổng số học sinh Vệ sinh cá nhân Tự học bài ở nhà Tự mình làm được Cần người lớn giúp Tự giác không cần nhắc nhở Chưa tự giác, bố mẹ phải nhắc nhở nhiều SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 24 12 50% 12 50% 6 25% 18 75% Khảo sát qua quan sát học sinh thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Đạo đức. Tổng số học sinh Thực hành thảo luận nhóm Biết cách lắng nghe, hợp tác Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi nhóm SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 24 11 45,8 % 13 54,2 % Khảo sát qua quan sát thực tế, cách ứng xử của học sinh với bạn khi chơi các trò chơi dân gian tập thể, kết hợp với Tổng phụ trách Đội đánh giá học sinh. Tổng số học sinh Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể Biết cách ứng xử hài hoà khá phù hợp Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 24 10 41,6 % 14 58,4 % Qua sự thống kê trên, chúng ta cũng có thể thấy kỹ năng sống cơ bản của học sinh còn rất hạn chế, còn đang ở dạng “tiềm năng”, cần được khơi dậy, rèn luyện và phát triển. c. Các nguyên nhân - Chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa đầu tư thích đáng cho việc giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống. Ở trường thì các em phải dành quá nhiều thời gian cho việc học kiến thức nên không còn thời gian học cách tự phục vụ bản thân cũng như trau dồi các kỹ năng mềm. - Kỹ năng truyền đạt đúng với đặc trưng của dạy kỹ năng sống của giáo viên còn có phần hạn chế. Giáo viên chỉ mới chú trọng dạy kiến thức, coi nhẹ việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. - Đa số học sinh chưa có ý thức tự giác, nhút nhát, ngại tham gia các hoạt động chung... - Nhiều gia đình chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền, đáp ứng nhu cầu vật chất cho con em, chưa hiểu tâm lý của con em mình và đủ khả năng dạy cho con những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống như: kỹ năng ứng xử, giao tiếp; kỹ năng tự bảo vệ...Rất nhiều bố mẹ đang “bóp nghẹt” các kỹ năng sống cơ bản của con bởi cách yêu thương sai lầm như làm hộ con, can thiệp vượt quá nhu cầu và mong muốn của con. Bên cạnh đó một số bậc cha mẹ học sinh không tạo điều kiện cho con tham gia một số hoạt động của nhà trường. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Các giải pháp, biện pháp mà đề tài đưa ra ra nhằm giúp cho giáo viên chủ nhiệm lớp giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cơ bản cho học sinh, giúp cho học sinh trở thành những học sinh có tính tự giác cao, kỹ năng sống cơ bản tốt khi còn ngồi trên ghế nhà trường và khi trở thành những người trưởng thành thì sẽ là những công dân tích cực của xã hội b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. Biện pháp 1. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua công tác chủ nhiệm lớp: Mỗi thầy giáo, cô giáo muốn hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm trước hết phải có tình yêu thương con người, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải hiểu về tâm lý lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đối với học sinh có những biểu hiện lệch lạc về nhân cách giáo viên chủ nhiệm chính là người cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” em về với “cái thiện”. Thầy, cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo về lời ăn, tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình độ chuyên môn; quan hệ với trò như người thân để trò cảm thấy vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm lâu thấm đất. Trước đây, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu là định hướng, hướng dẫn hành vi đạo đức cho học sinh. Hiện nay giáo viên chủ nhiệm không chỉ làm công tác chuyên môn mà còn phải có kiến thức, kỹ năng để giải quyết những tình huống phát sinh của học sinh trong lớp. Vì thế ngoài việc phải đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, gây hứng thú học tập cho học sinh. Và điều không thể thiếu là người giáo viên chủ nhiệm phải có tâm huyết với nghề và tình yêu thương đối với học sinh. Vậy để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua công tác chủ nhiệm lớp thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần: Tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hình thức dạy học của mình, qua các giờ sinh hoạt để giáo dục đạo đức và nhân cách cho học sinh. Xây dựng hành vi giao tiếp giữa “Thầy với thầy, trò với trò, thầy với trò” rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hoá, lên án mọi hành vi bạo lực học đường và xã hội. Thường xuyên liên hệ với cha mẹ học sinh, kịp thời nắm bắt thông tin, cùng kết hợp với cha mẹ học sinh rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử văn hoá, rèn luyện sức khoẻ phòng chống bạo lực. Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ phát huy được tính tích cực trong việc rèn luyện kĩ năng sống của thầy cô giáo và học sinh. Giáo dục cho học sinh nhận biết được lợi ích của việc rèn luyện kĩ năng về mọi mặt: cho bản thân, gia đình, xã hội và đất nước. Đồng thời biết quan tâm chia sẻ đến mọi người. Tổ chức lớp cũng nên đổi mới: lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó cần thay đổi theo từng tháng để từng học sinh biết được các công việc của người lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và xử lí ra sao. Đồng thời biết cảm thông với công việc của người chỉ huy. Qua đó, rèn cho các em những kĩ năng chỉ huy - lãnh đạo cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự đổi mới phương pháp trong việc thực hiện công tác chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh rèn luyện và tự rèn luyện. Coi trọng tự rèn luyện của học sinh và động viên kịp thời. Vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của người thầy. Học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của thầy. Vì vậy để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trước hết “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đã phát động. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên đánh giá kết quả của học sinh: Khi chúng ta làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng cần biết hiệu quả công việc ra sao, người khác nhìn nhận đánh giá như thế nào về việc làm của mình. Học sinh cũng vậy, khi các em làm xong công việc các em cần được biết hôm nay mình làm như thế nào, đã tốt chưa? Chính vì vậy, nhận xét việc làm của các em cũng được coi là một cách để hình thành và phát triển kỹ năng của các em. Tạo ra các phong trào thi đua trong lớp. Bác Hồ của chúng ta từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”. Để nói rằng một đất nước muốn có sự phát triển thì những con người trong đất nước đó phải có sự thi đua nhau. Hay ta có thể hiểu thi đua chính là động lực tạo nên sự phát triển, là nguồn gốc của sự phát triển. Chỉ những ai thực sự muốn thi đua thì ở họ mới có tính cầu tiến và công việc của họ bao giờ cũng đạt đến thành tích cao nhất. Còn những người không có tính thi đua thì họ chỉ làm một cách hời hợt cho qua chuyện và chắc chắn hiệu quả công việc sẽ không cao. Đối với học sinh, thi đua mang lại cho các em sự vui thích, thú vị, hào hứng đôi khi chỉ vì mong được cô thầy khen. Chính vì thế muốn các em thực hiện mọi hoạt động một cách tốt nhất thì phải đưa các em vào các phong trào thi đua. Thực tế, ta cũng nhận thấy rằng khi tạo ra được những phong trào trong lớp đôi khi các em chỉ muốn chứng tỏ bản thân mình với bạn bè mà các em nỗ lực hết mình làm việc, làm một cách tự giác. Chính vì thế có thể nói, các phong trào trong lớp học tạo nên tinh thần tự giác, rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Trong lớp chúng ta có thể tạo ra các phong trào: Phong trào “ Tổ nề nếp” Phong trào này xây dựng nhằm mục đích giữ cho nề nếp luôn thực hiện tốt như việc thường xuyên mặc đồng phục, xếp hàng ra vào lớp, hay trực nhật vệ sinh tốt, đi học đều, đúng giờ... Tất cả những vấn đề đó khi đưa vào thi đua sẽ khiến các em thực hiện một cách nghiêm túc hoặc những bạn nào không thực hiện nghiêm túc sẽ khiến các bạn khác không hài lòng và thường xuyên nhắc nhở nên tạo ra cho các em được các thói quen tốt. Đánh giá kết quả của phong trào này chúng ta dựa vào kết quả mà các tổ trưởng đã theo dõi nề nếp như bảng phân công theo dõi. Để kết quả theo dõi mang tính khách quan thì chúng ta nên để cho học sinh kiểm tra chéo, tức là tổ này để tổ kia theo dõi. Làm như thế sẽ khiến tính thi đua càng thêm nghiêm túc và học sinh càng cố gắng thực hiện vì tổ nào cũng muốn tổ mình là tổ nề nếp nhất. Đánh giá kết quả thi đua chúng ta nên đánh giá theo từng tuần, nhưng tổng kết thi đua chúng ta nên tổng kết theo từng tháng. Vì làm như thế từng tuần các em sẽ biết được tổ mình đã tốt ở chỗ nào còn thiếu sót ở điểm nào để từ đó các em cố gắng thực hiện ở tuần sau và như thế trong tháng thi đua các em có thể phát huy những mặt mạnh và khắc phục những mặt chưa tốt. Phong trào học tập Phong trào này nhằm tạo ra phong trào học tập sôi nổi. Khắc phục một số vấn đề thường gặp ở học sinh: học sinh không ôn bài cũ ở nhà, học sinh không có ý thức làm bài tập trên lớp thường xuyên giáo viên phải nhắc nhở, phát biểu xây dựng bài... Thực hiện tốt phong trào này, ý thức học tập của học sinh được nâng lên. Đối với phong trào này chúng ta nên cụ thể hóa thành phong trào của các tháng. Hầu hết mỗi tháng sẽ có một ngày kỉ niệm vì thế các phong trào nên gắn liền với ngày kỉ niệm đó. Làm như thế sẽ tăng thêm ý nghĩa của phong trào thi đua. Ví dụ: tháng 10, xây dựng phong trào “Hoa thơm tặng mẹ”, tháng 11, phong trào “Học tốt”, tháng 12, phong trào “Tiếp bước anh bộ đội Cụ Hồ”... Phong trào trang trí lớp học thân thiện - Thi trồng cây, hoa phù hợp, sử dụng sản phẩm mỹ thuật, kỹ thuật, sản phẩm các cuộc thi chữ viết đẹp, lồng đèn..trang trí lớp học theo tổ. Tạo không khí thi đua giữa các tổ với nhau nhằm đạt mục tiêu lớp học xanh, sạch, đẹp. Phong trào khác - Đối với các phong trào do nhà trường, liên đội phát động giáo viên chủ nhiệm cần làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, khuyến khích, lên kế hoạch, mục tiêu để học sinh có ý thức tự giác, tích cực tham gia có hiệu quả. - Giáo viên chủ nhiêm cần đưa ra hình thức khen thưởng cụ thể dựa trên những tiêu chí của từng phong trào để tạo động lực cho học sinh như: + Khen tập thể: Tặng cờ thi đua theo tổ hàng tháng (có thể quy định cờ nhất tháng màu đỏ). + Khen cá nhân: Tuyên dương, động viên khích lệ đối với những em, đôi bạn cùng tiến có tiến bộ hàng tuần, hàng tháng. Bình bầu gương mặt xuất sắc, có những tiến bộ vượt bậc của tháng, kỳ, năm học để tặng quà khen thưởng kịp thời. Hình ảnh học sinh trang trí lớp học. Hình ảnh học sinh chăm sóc cây xanh. Biện pháp 2. Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã nghiên cứu, tích hợp đúng, đầy đủ các địa chỉ cần giáo dục kỹ năng sống. Luôn vận dụng vào các môn học, tiết học, linh hoạt. Nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học,.... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực. Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ năng sống cho các em, đó là các kỹ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Ví dụ, trong tiết Kể chuyện, giáo viên yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện cho cả lớp nghe, giúp học sinh rèn kĩ năng giao tiếp trước đám đông, mạnh dạn và tự tin, nói năng ngày càng lưu loát hơn.. Khi kể xong, giáo viên mời các bạn nhận xét, trao đổi về nội dung ý nghĩa câu chuyện, nhận xét về tính cách của các nhân vật trong truyện, giúp các em tạo cảm giác tự tin khi trao đổi một vấn đề, cách giải quyết một vấn đề có hiệu quả nhất. Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Cần sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, học sinh sẽ được tạo cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Con người cần gì để sống? Vai trò của các chất dinh dưỡng có trong thức ăn; Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng; Phòng bệnh béo phì; Phòng tránh tai nạn đuối nước;...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những việc nên làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Trong tiết Khoa học, qua việc tổ chức học nhóm rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp trước các bạn, kĩ năng hợp tác cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc. Trong tiết Toán, khi học sinh đánh giá, nhận xét bài làm của bạn, các em đã được rèn kĩ năng giao tiếp một cách đúng mực và kĩ năng chia sẻ. Chẳng hạn: Bạn làm sai, nhận xét là: "Theo mình, cách giải thế này" chứ không nói là:"Cậu làm sai rồi" hoặc nhận xét một cách không tế nhị Hình ảnh học sinh thực hành thí nghiệm trong tiết khoa học (Bài: Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt) Hình ảnh học sinh thực hành tập biểu diễn trong tiết Âm nhạc (Bài: Ôn tập bài hát: Chú voi con ở Bản Đôn) Biện pháp 3. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp: Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một hoạt động quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Chính từ những hoạt động như: Sinh hoạt chủ điểm, lao động, hoạt động xã hội đã góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Giúp các em biết tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình. Có thể nói việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là xây dựng cho các em các mối quan hệ phong phú, đa dạng một cách có mục đích, có kế hoạch, có nội dung và phương pháp nhất định, gắn giáo dục với cộng đồng, tạo sự thân thiện trong mọi tình huống. Biến các nhu cầu khách quan của xã hội thành những nhu cầu của bản thân học sinh. Nhân cách trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động có ý thức. Chính trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải trí con người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường Tiểu học là điều kiện tốt nhất giúp học sinh tích luỹ và rèn kĩ năng sống có hiệu quả. Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp các em được hợp tác, trải nghiệm các kĩ năng sống. Vậy giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp sao cho học sinh có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của chính mình và người khác. Hình ảnh học sinh tham gia thi lồng đèn nhân dịp Tết trung thu. Hình ảnh học sinh tham gia sinh hoạt chủ điểm. Biện pháp 4. Giáo dục kĩ năng giao tiếp trong sinh hoạt đội, hoạt động vui chơi Hoạt động Đội là hoạt động tập thể có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh lớp 4, vì có những em vừa mới được kết nạp vào Đội ở đầu năm lớp 4. Chính hoạt động Đội giúp các em thấy mình dường như lớn lên, trưởng thành hơn, vào Đội các em được giao lưu, học hỏi với các bạn đội viên khác trong trường, được hoạt động chung, được tham gia các phong trào, các cuộc thi do Đội tổ chức. Qua hoạt động Đội rèn cho các em nhiều kĩ năng giao tiếp mới, đó là giao tiếp với các anh chị phụ trách chi đội, các Đội viên, các sao, giao tiếp với các bạn trong Ban chỉ huy liên đội, tạo cho các em giao tiếp trong các mối quan hệ đa dạng hơn. Từ đó, các em biết giao tiếp phù hợp trong các tình huống của môi trường mới mà người đội viên tham gia. Hoạt động vui chơi, đặc biệt là trong giờ ra chơi, học sinh thường có những biểu hiện không tốt bằng trong giờ học. Phần lớn học sinh mắc lỗi vào giờ ra chơi. Vì thế trong giờ ra chơi, giáo viên cần theo dõi, quán xuyến đến mọi học sinh trong trường, trong lớp, chú ý xem các em chơi trò chơi gì, nói năng với nhau ra sao, nhắc nhở những học sinh còn nói năng chưa phù hợp. Có như vậy học sinh mới chú ý rèn cách nói của mình cho đúng cho phù hợp. Giáo viên cũng cần hướng học sinh tham gia các trò chơi lành mạnh, có ý nghĩa, có tinh thần tập thể như: chơi chuyền, chắt, nhảy dây, đá cầu, kéo co Những trò chơi đó góp phần giáo dục học sinh kĩ năng giao tiếp với nhau và tạo ra tinh thần đồng đội. Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với tổng phụ trách Đội trong quá trình sinh hoạt. Hình ảnh học sinh tham gia chơi trò chơi kéo co. Hình ảnh học sinh tham gia chơi trò chơi nhảy bao bố Biện pháp 5. Giáo dục kĩ năng giao tiếp khi ở nhà Thực tế cho thấy nhiều học sinh ở trường rất ngoan nhưng về nhà lại ngược lại. Lí do là vì ở trường có các thầy cô và các bạn theo dõi và đánh giá x
Tài liệu đính kèm: